CHIA SẺ

MT_Viet Rigpa_Bàn Thờ Quy Y Tam Bảo và Tam Căn Bản(1)

Tâm ta, tâm Thầy và giác ngộ hoàn toàn không tách rời được. Nghĩ và tu như vậy, chúng ta sẽ thấy được bản chất thật của tâm ta.

Khi ta thiền, thái độ đầu tiên là đi tìm sự yên tĩnh và an ổn, điều này dựa trên sự thích bình yên của cái ngã. Chúng ta cố loại bỏ các tư tưởng, cho rằng thiền là sự không có khái niệm. Sự đi tìm dễ chịu không kìm hãm được chỉ mang đến buồn ngủ, một sự hôn trầm hơi giống trạng thái tâm của một số súc vật đang ngủ, chúng ta có cảm giác là một thiền giả lớn, trong khi thực ra chúng ta đang ngủ trong một lớp sương mù hơi mờ mịt, nhưng dễ chịu. Đây là một cái bẫy phải tránh.

Một cái bẫy khác trong sự thiền là cương quyết muốn ngưng lại những dòng tâm thức. Sự cố gắng hủy bỏ đi sự chuyển động của các tư tưởng đòi hỏi một cố gắng không thể tưởng tượng. Chúng ta cố gắng không lay động, thu mình lại, để ngăn các tư tưởng lay động nơi ta. Chúng ta còn thở nhẹ nữa. Ta hết sức tránh động đậy, và tư thế chúng ta cho thấy điều đó. Chúng ta cố dồn nén các tư tưởng và cố ngăn chúng xảy đến. Trong một thời gian đầu, mình làm được điều này. Khi dồn nén tâm, ta làm khựng lại tất cả các năng lực của thân. Các năng lực không lưu thông nữa, tất nhiên có một sự không chuyển động. Chúng ta rất hài lòng và nghĩ: “ta đã thành công, đó là thiền, không có gì động đậy nữa”. Nhưng do phát triển ý đó và nhất là sự vui do đã được cái mà ta tìm cầu với biết bao nhiêu cố gắng, tạo nên nhiều lay động. Ta phải cố gắng nhiều hơn nữa để trấn giữ lại sự lay động thêm vào ấy. Càng lúc chúng ta càng căng thẳng, co quắp và lo âu. Điều đó làm tâm rối loạn, thân căng thẳng, và sau cùng sẽ mang đến nhiều đau khổ.

Vì sao trong trạng thái ấy chúng ta khổ? Ta khổ vì ta gắn bó các tư tưởng. Chúng ta đã chặn chúng lại. Chúng không đi ra được, không giải thoát được và tất nhiên, chúng không biến đi được. Ở lại đó, chúng làm ta rối loạn. Điều này hơi giống như chúng ta cầm một sợi dây thừng với một cái gì chuyển động ở đầu bên kia, ví dụ một con chó lớn. Con chó bị giữ bằng dây đó, kéo chúng ta về bên phải, kéo chúng ta về bên trái. Nó lôi chúng ta đi mọi phía, và chúng ta không làm gì được để chống lại. Nếu bây giờ chúng ta để sợ dây đó đi, thì con chó sẽ làm điều gì nó muốn. Cũng thế, thân và tâm chúng ta có thể yên ổn nhưng vì chúng ta cố giữ, chặn lại các tư tưởng, điều này như thể chính chúng ta tự cột mình vào một sợi dây. Tất cả các lay động đó của tâm làm chúng ta rối loạn và cho ra những đau khổ.

Rốt cuộc thiền là gì? Người ta dùng các kĩ thuật, nhưng thiền không thể đồng hóa với các kĩ thuật ấy. Thiền không phải là sự tập trung lên các hình dáng hay màu sắc khác nhau. Thiền là rời bỏ hết tất cả các ràng buộc, tất cả các ngăn ngại giam giữ tâm lại: các thói quen, các khuynh hướng, các luyến ái gò bó tâm khiến nó khổ. Thiền là để tất cả những gì giam giữ và giới hạn tâm lại, được ra đi dần dần, khiến tâm tìm lại được sự tự do tự nhiên, sự thoải mái ban đầu.

Tất cả các trở ngại ấy, tất cả các sự giới hạn ấy, tất cả các luyến ái ấy không bị bên ngoài áp đặt vào bên trong. Đó không phải là các yếu tố kích thích, làm cho tâm bị bó buộc. Chính tâm tự cột lại, tự giới hạn, tự vặn vẹo trong các mâu thuẫn của nó. Phải làm việc từ trong ra ngoài. Sự buông bỏ không tiến hành bên ngoài, nhưng ngay ở bên trong chúng ta. Nếu trong tâm không còn nắm bắt điều này hay điều kia, chính tâm từ bên trong, tự giải thoát. Khi tự giải thoát, nó tìm lại được bản chất ban đầu của nó. Chúng ta tự đặt mình trong bản chất ấy một cách thanh tịnh, tự nhiên, không xảo thuật, bằng cách để tâm tự nhiên, không ép buộc nó bằng bất cứ giá nào. Nó bèn an trú và chúng ta ở trong một cảm giác dễ chịu, hạnh phúc và có không gian, trong đó mọi hình thức luyến ái tan ra từ bên trong ra bên ngoài.

Người ta nói về những nguồn gốc của luyến ái: đó là các vật luyến ái vì có luyến ái, chứ không phải vì các vật. Vậy, phải tháo bỏ luyến ái từ bên trong. Những vật ấy không còn là những vật của sự luyến ái nữa mà là những vật. Không còn chuyển động của khái niệm để muốn nắm bắt hay vứt bỏ chúng đi. Không còn dòng tâm thức, như vậy không còn xáo động trong tâm. Tâm tìm lại được sự bình an vì không còn bị xáo trộn bởi chuyển động của các tư tưởng. Nó trở nên bình lặng, an trú, tự ổn định. Đó là ý nghĩa của Si-nê trong tiếng Tây Tạng: “Si-wa” có nghĩa là làm yên đi, “Nê-pa” là sự ổn định, nghĩa là làm yên các cảm xúc nẩy sinh từ luyến ái và sự ổn định tự nhiên của tâm trong trạng thái của nó.

Làm sao để thoát khỏi các tư tưởng? Không thể bằng cách cấm chúng. Khi chúng ta hiểu rằng tương lai chưa đến, nó không có, quá khứ không còn nữa, nó không có, và hiện tại là một lúc không định nghĩa được giữa quá khứ và tương lai, vậy nó không là gì hết, thì chúng ta hiểu rằng không có gì để tâm có thể chạy theo. Một khi đã hiểu được như vậy, tâm không còn đi tìm nữa. Sự xáo động của tâm là cái gây nên cái mà chúng ta gọi là các tư tưởng. Vậy, chúng lắng dịu đi và nếu không còn sự luyến ái ấy đối với quá khứ, hiện tại và tương lai, làm sao có thể có một cái “tôi” vốn là khái niệm và tư tưởng chuyển động? Chúng ta bị nhiều xáo trộn trước hiện tại, quá khứ và tương lai rất nhiều tư tưởng, nuối tiếc, hối hận và nhớ tưởng nảy sinh từ quá khứ, những hi vọng và lo sợ sinh từ tương lai. Hiện tại không là gì cả. Thời gian là một ảo tưởng, các phút nối tiếp nhau. Thời gian luôn thay đổi. Rốt cuộc tương lai là quá khứ của ngày mai. Hiện tại, quá khứ, tương lai là những khái niệm chỉ tạo nên các tư tưởng, các hi vọng và lo sợ làm xáo trộn tâm. Tốt hơn là hãy cho qua tất cả các khái niệm ấy, hãy rời bỏ chúng để tìm lại sự vững vàng và yên ổn của tâm.

Lama Gendun Rinpoche
Việt dịch: Ani Ngawang Kuntchok Dreulma Viên Huệ
Trích: Thầy và đệ tử