CHIA SẺ

 

Một di sản cần gìn giữ và nâng niu

Thangka phổ biến hình chữ nhật, khổ nhỏ thường có kích thước dài – rộng xê dịch từ 40 đến 100 cm. Loại lớn, thậm chí khổng lồ thường chỉ xuất hiện trong các ngày lễ trọng cùng những lễ hội Phật giáo Kim Cương thừa, có thể che phủ cả một mặt công trình vĩ đại hoặc một sườn núi. Như bức tranh thêu treo bên ngoài Tu viện Drepung, trong lễ hội Shoton được tổ chức thường niên có diện tích lên tới cả trăm mét vuông, với kích cỡ 7m x 15m chẳng hạn. Mang nghĩa những họa phẩm có thể cuộn lại được, thangka rất tiện lợi cho các nhà sư dễ dàng di chuyển, trong quá trình hành lễ và thuyết pháp ở miền đất có địa hình hiểm trở bậc nhất thế giới. Thangka được bảo quản trong chính điện, được thánh hóa bằng nước thiêng, phải đọc thần chú khi mở ra. Thangka chứa quyền năng bí nhiệm nên trừ lúc làm lễ thì luôn được che phủ bằng tấm lụa kuda.

Bố cục của thangka – thành tố chủ đạo của nghệ thuật Phật giáo luôn tuân thủ tính trang trí hình học. Tay, chân, mắt, mũi, tai cùng các bảo bối, trì vật mang tính nghi thức đa dạng đều được bố trí đăng đối, trên một mạng kẻ ô vuông gồm những góc cùng đường thẳng giao nhau.

Phân chia theo chất liệu toan, tranh thangka chủ yếu gồm hai loại. Tranh vẽ trên vải britan (gothang) và làm bằng lụa (bao gồm cả kỹ thuật khâu kết các mảnh lụa và thêu tranh) gọi là trithang. Nếu phân loại dựa trên kỹ thuật vẽ thì phổ biến nhất là tranh sơn màu (tson-tang). Ngoài ra còn có tranh khâu kết các mảnh lụa (go-tang), tranh vẽ nét bằng vàng kim trên nền đen (nag-tang), tranh in từng mảng bằng bản khắc gỗ rồi vẽ nét, tranh thêu (tshim-tang), tranh nền đỏ vẽ nét vàng kim trên màu đỏ son và cuối cùng là tranh nền vàng kim (được dùng rất cẩn trọng để vẽ chư Thần – Phật đạt trình độ giác ngộ viên mãn)… Màu vẽ được chế tạo từ chất khoáng và chất hữu cơ trộn với keo. Toàn bộ công đoạn vẽ tranh đòi hỏi yêu cầu rất cao về sự thành thạo và thấu triệt các nguyên tắc trắc lượng đồ tượng (tức là các quy pháp tạo hình và tỉ lệ tượng Phật chuẩn xác).

Một “nhân vật” không thể thiếu trong thangka chính là các đám mây, với màu sắc sặc sỡ khác nhau. Với các tín đồ Phật giáo Tạng truyền, mây luôn mang ý nghĩa huyền bí và tượng trưng cho sự sáng tạo vì có thể chuyển đổi mọi hình thù. Đặc biệt, đám mây trắng được chuyên chở ý nghĩa môi trường sáng tạo nảy nở, phát sinh để từ đó chân lý được hiển lộ.

Thangka trở thành những tác phẩm nghệ thuật vô cùng giá trị (cả về tinh thần lẫn vật chất) chính là bởi những bậc thầy vẽ tranh đều phải trải qua một quá trình khổ luyện kéo dài, để có thể đắc đạo cả Phật pháp lẫn bút lực. Người ta nói, “muốn cầm được bút vẽ trước nhất phải là kẻ tu hành. Bởi thân tâm phải tịnh thì trí tuệ mới được đả khai, cảnh giới bức họa mới mang theo năng lượng và uy lực của Phật pháp”.

Trên hành trình gian nan học vẽ thangka, các học viên sẽ mất ba năm cho việc phác họa hình ảnh chư Thần – Phật cùng các vị Bồ Tát hiện diện trong kinh Phật. Hai năm kế tiếp chỉ để học cách thức giã, nghiền và sử dụng thuần thục các loại màu khoáng, vàng ròng để vẽ. Từ năm thứ sáu, họ sẽ được nghiên cứu tường tận đến từng chi tiết các kinh sách để chọn chủ đề cho họa phẩm của mình. Vào năm thứ 10, một bậc thầy thangka sẽ kèm cặp, giám sát học viên thường xuyên để tới năm thứ 11, học trò chính thức thành tài và có thể cho ra đời những bức thangka đạt chuẩn. Nghệ thuật Tây Tạng vốn là một ví dụ điển hình về hóa thân (nirmakakaya) nên cả hình thể và phẩm chất của Phật đều được thâu tóm và chuyển tải trọn vẹn qua hình tượng thần thánh. Vì thế, thangka phải tuân theo những biểu trưng cùng sự ám chỉ phức tạp, khi muốn minh giải phải tuân theo nhưng quy tắc chặt chẽ đã được ghi chép trong kinh sách. Người nghệ sĩ, ngoài rèn luyện tay nghề còn phải tự trang bị phông nền vững chắc về tôn giáo – kiến thức – bối cảnh để có thể sáng tạo một bức tranh cuộn chính xác và mang lại hiệu ứng thị giác ấn tượng nhất cho người xem. Kiến tạo thangka bao gồm cả nghi lễ lẫn thực hành thiền định. Vì thế, mỗi nghệ sĩ – người tu hành thường phải mất nhiều tháng trời mới có thể hoàn thành một bức tranh, dù chỉ đơn thuần vẽ nét và tô mầu hay kỳ công thêu từng sợi chỉ vàng và đính ngọc tinh xảo.

Hồ Cúc Phương
Nguồn: Huyền Bí Thangka – Phần 2