Trang 3

Mantra Âm Thanh Của Chánh Giác

OM là từ biểu trưng cho cái vô cùng, viên mãn, vĩnh hằng.Những người Phật tử Tây Tạng tin tưởng rằng bản thể của vũ trụ biểu đạt qua âm thanh mật chú (mantra). Mật chú là sức mạnh làm cho tâm thức tập trung và trở nên nhu nhuyễn.

Chữ mantra có nguồn gốc từ ngữ căn tiếng Phạn: manas, nghĩa là tâm; và tra, nghĩa là công cụ. Tiếng Latin cũng có ngữ căn tương tự là mens, nghĩa là tâm thức. Như vậy, Mantra có nghĩa là công cụ của tâm thức, là âm thanh cốt lõi, âm thanh của Chánh giác làm cho luân hồi và Niết bàn hợp nhất. OM là đầu nguồn của Mantra, có nguồn gốc từ đạo Bà la môn. OM được Phật giáo tiếp nhận và mở rộng phạm vi để làm điểm tiên khởi cho tất cả những Mantra khác. OM biểu trưng cho tính tổng nhiếp của các pháp, cái vô cùng, cái viên mãn. Tụng niệm Mantra là cách làm cho tâm được tập trung, hướng về hòa nhập với tánh giác.

Khi nghe âm thanh tụng niệm mật chú, những người chưa quen với Phật giáo Tây Tạng cảm thấy đó là những âm thanh kỳ lạ. Giả sử, một nhà sư Tây Tạng nghe những âm thanh thường có ở Hoa Kỳ, cụ thể như những âm thanh của một đội bóng đá trong giờ thao luyện, tiếng của những cầu thủ lầm bầm và cáu gắt thì cảm thấy đó là những âm thanh lạ lẫm! Tuy nhà sư cảm thấy lạ lẫm nhưng những tuyển thủ và huấn luyện viên lại cảm thấy quen thuộc và vận dụng những âm thanh như vậy để kích khởi sức mạnh và tập trung tinh thần khi đá bóng. Những âm thanh này không có gì lạ đối với họ. Tất cả chúng ta đều đã quen thuộc với những âm thanh của chính mình và sử dụng chúng để kích khởi những thể nghiệm và tạo nên những dạng ý nghĩa khác nhau. Một trận đấu khúc côn cầu của nữ sinh có nhiều âm thanh đặc trưng mà những nữ vận động viên này hay dùng để tập trung tinh thần phấn đấu. Một buổi khiêu vũ ở trường trung học có những động tác và âm thanh đã trở thành nghi thức và rất có ý nghĩa đối với những người tham dự, làm hưng phấn và dẫn dắt các cảm xúc và hành động của họ. Những câu “mật chú văn hóa” này nối kết họ lại với nhau bằng một tâm thái chung nhất, giao hòa với những biểu cảm văn hóa chủ đạo của cộng đồng. Tương tự như vậy, những mật chú của Phật giáo Tây Tạng kích khởi những thể nghiệm tâm linh, hướng đến sự chuyển hóa nội tâm.

Vận dụng những mật chú tức là vận dụng những xung lực tự nhiên. Một cách tự động, chúng ta hét lên khi sung sướng hay giận dữ, gào lên để giải tỏa xúc cảm hay áp lực, và hát lên khi hạnh phúc thảnh thơi. Chúng ta nghe ai đó gọi tên mình và trả lời. Một vài người ậm ừ trong miệng một cách vô thức khi vừa đi vừa làm việc. Nhưng những mật chú vận dụng những công năng tự nhiên đó một cách có ý thức để tập trung tâm ý và sức tỉnh giác như mong muốn.

Có một số âm thanh căn bản trong cảnh giới con người. Những âm thanh cho chúng ta biết sự việc gì đang xảy ra. Theo những nhà ngôn ngữ học, có một số âm thanh mang tính phổ quát đại đồng đối với trẻ con khắp thế giới. Những âm thanh thốt lên khi mới lọt lòng là ngôn ngữ và phương thức thông tin căn bản. Mantra là những âm thanh hướng chúng ta đến thực tại; lôi kéo sự chú ý của chúng ta và đưa chúng ta hòa nhập với nhịp điệu vận hành của vũ trụ.

Đạo lý của Mantra dạy rằng vũ trụ là một công năng của Phật, hoạt dụng theo những lời mà Ngài dạy về yếu tính bản nhiên. Chữ nghĩa và âm thanh không cách biệt với yếu tính bản nguyên của thực tại; đồng nhất với thực tại. Tụng niệm những âm thanh và những chuỗi âm thanh phù hợp của Mantra có nghĩa là chúng ta kích khởi những nghĩa lý và những thể nghiệm cần được kích khởi.

Mỗi một phân tử, mỗi một vi hạt, và mỗi một sự vật là một đơn vị có dao động riêng, tần số riêng. Một ca sĩ vĩ đại có thể làm vỡ một tấm kính bằng một nhạc tiết cộng hưởng với tần số dao động của nó. Một đội lính trước khi nhịp bước diễn hành qua một cây cầu luôn luôn phải chỉ định một binh sĩ giẫm chân lạc nhịp để những dao động phát sinh không làm gãy cầu. Chỉ bằng một tiếng hét, vị đại võ sư có thể chận đứng địch thủ. Sử dụng đúng pháp, những câu Mantra có sức mạnh tiềm tàng vô cùng to lớn.

Những câu mật chú có tác dụng kỳ diệu không phải vì tính chất thần bí của tự thân, mà vì sức cảm nghiệm của tâm thức. Mật chú tự thân không có thần lực; mà chỉ là công cụ để gom kết những nguồn thần lực sẵn có. Giống như một thấu kính hội tụ, mặc dù bản thân thấu kính không chứa đựng một chút sức nóng nào cả, thế mà nó có thể gom kết những tia nắng mặt trời và chuyển hóa những tia nắng dàn trải lan man đó trở thành một điểm nóng cháy bỏng (Govinda 1970, 28).

Mantra đã được dùng từ thời khởi thủy của tôn giáo trong hình thức này hay hình thức khác. Mantra trong Phật giáo Trung Quốc có tên là Chân ngôn, thuộc Chân Ngôn Tông. Thậm chí dòng đầu tiên của Sáng thế ký cũng là một câu Mantra: “Thoạt kỳ thủy là ngôi lời và ngôi lời là Thượng đế”. Cuộc sống của chúng ta đã gắn liền với mật chú tự bao giờ trong dạng này hay dạng khác. Chúng ta có thể khéo léo vận dụng.

OM MANI PADME HUM
Om Mani Padme Hum, dịch nghĩa là “Gọi mời ngọc sáng của hoa sen”, là câu Mantra phát tích từ Bồ tát Quán Thế Âm, vị thần bảo hộ của Phật giáo Tây Tạng. Thế giới bắt đầu bằng chữ OM và kết thúc với chữ HUM. Câu mật chú này là một mẫu mực của những chuyển động liên tục của thế giới, kích khởi tổng thể những yếu tính của chư Phật.

Việc tụng niệm mật chú không dựa trên cơ sở luận biện, vì những ý tưởng và khái niệm lý tính trong luận biện dẫn dắt người ta đi lạc khỏi nguồn mạch trực giác. Mật chú làm cho hành giả phát triển nội quán. Mật chú không hướng tâm thức hành giả đến một đối tượng hay một sở trú nào cả. Mật chú chỉ khai mở một khung cửa, cho thấy một hình tượng, hình tượng này giống như một hình ảnh phản chiếu từ tấm gương soi, hình ảnh của yếu tính vũ trụ. Mật chú trao cho hành giả một cảm nghiệm để tự thân lắng nghe; vận dụng trực cảm, tự thân hành giả có thể trực tiếp nghe được âm thanh của vũ trụ.

Câu mật chú Om Mani Padme Hum mà hành giả thường xuyên tụng niệm sẽ làm nội tâm được trong sạch và hướng về Chánh giác. Hành giả làm cho đầy tâm thức của mình với âm thanh tụng niệm và nhờ vậy mà những loạn động không còn lối để xâm nhập vào. Theo nguyên lý của Phật giáo Tây Tạng thì cần tập trung sức chú ý để dẫn dắt tâm thức của mình hướng đến những cảnh giới cao hơn.

Mỗi một âm tiết đều có hai dạng ý nghĩa, ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa biểu tượng. Những biểu tượng có thể được sử dụng để khơi dậy một dạng cảm nghiệm. Sáu pháp thiền quán của phái Kagyu chỉ bày cho hành giả thấy hình tượng của những âm tiết mật chú trong phức hợp những luân xa thuộc dạng thiền quán ảnh tướng (luân xa là những tụ điểm của năng lượng tâm linh trong cơ thể). Mục đích là để giúp tâm thức hành giả cảm nghiệm được vòng tròn vận hành của nhiệt lượng, của những trạng thái khác nhau, nhờ vậy mà đạt được trạng thái tỉnh thức lâu bền. Đó là những pháp tu tập có công năng trị liệu.

Mỗi âm tiết của câu mật chú đều xuất phát từ một trong 5 vị Phật phương hướng của vũ trụ. Thực tại được diễn đạt bằng âm thanh HUM. Phụ âm H…hhhhhhhhh trong âm HUM giống như hơi thở ra. Âm UM…ummmmmmmmm ở cuối âm tiết có nghĩa là nhất thể, dạng dao động của vũ trụ.

Âm thanh và yếu nghĩa mật chú là đồng nhất với âm thanh và yếu nghĩa TÂM, tâm này chính là thực tại. Vì vậy, quán chiếu mật chú cũng quan trọng, là một bộ phận của công phu tụng niệm vì năng lực của mật chú còn nằm trong việc hành giả vận dụng hình tượng của nó. Mật chú không phải chỉ là một cơ chế để tập trung tâm thức hay chỉ là một dạng âm thanh để hành giả nghe mà thôi. Âm thanh và hình tượng của âm thanh không phải là hai sự vật cách biệt nhau. Cảnh giới của mật chú là nhất thể. Mỗi âm tiết mật chú ứng với một vị Bồ tát tương ứng khi nó kích hoạt một luân xa hay tụ điểm năng lượng tâm linh liên quan, lúc ấy sức tỉnh giác được tập trung trong một chan hòa nhất thể.

Hành giả có thể tập trung tâm ý nơi một âm tiết, xem đó là đối tượng của thiền quán, theo nguyên lý mặt chữ và âm thanh phát ra là đồng nhất với ý nghĩa cần biểu đạt. Vì vậy mà việc sử dụng thiền mật chú là một sự phát triển tự nhiên của tư tưởng Phật giáo. Khi sắp nhập Niết bàn, đệ tử hỏi những bài kinh nào phải tuân hành, Phật trả lời rằng: “Những lời nào thiện thuyết là lời dạy của Phật”. Những hành giả Mật tông xem mật chú là những lời thiện thuyết.

LAMA ANAGARIKA GOVINDA

Nguyên tác: Ánh sáng Mật tông

 C.Alexander Simpkins & Annellen Simpkins

Việt dịch: Thích Minh Thành

NGHIỆP KHÔNG BAO GIỜ NGỦ QUÊN

Chắc hẳn các bạn đều biết, có rất nhiều loại nghiệp khác nhau. Vậy đúng ra nghiệp là gì? Nghiệp thực chất chính là “hành động”. Và đương nhiên có vô số hành động chúng ta thực hiện qua thân, khẩu, ý. Những hành động tích cực sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp, còn những hành động tiêu cực thì sẽ để lại những hậu quả tồi tệ. Không chỉ là những hành động của thân mà bao gồm cả lời nói và ý nghĩ.

Nhưng có một điều chắc chắn là nghiệp không ngủ quên bao giờ, chừng nào luân hồi chưa diệt tận chừng đó chẳng bao giờ có ngày nghỉ “Quốc Tế Lao Động” của nghiệp. Mỗi khi nghĩ tới nghiệp và luân hồi, mọi người thường luôn nghĩ đến nghiệp bất thiện. Tôi không cho rằng như thế là công bằng và thỏa đáng.

Luân hồi và niết bàn, khổ đau với hạnh phúc, phiền não và hỷ lạc đều mang tính tương đối. Nếu không có sa bà hay những khổ đau chúng ta đang trải qua thì ta làm sao biết nhớ tới vô thường, xả ly, vô chấp mà chính tất cả những sự thật này lại giúp ta tiến bước trên con đường đạo.

Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ – công đức và trí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim, nếu thiếu đi một thì sự tinh tấn của chúng ta sẽ trở nên lệch lạc. Chúng ta cần tích lũy công đức và trí tuệ với tấm lòng nhiệt thành và tinh tiến trong an vui. Công đức nếu thiếu đi trí tuệ, hoặc trí tuệ mà không có công đức thì sẽ chẳng mang lại ích lợi gì.

Hãy lấy thí dụ một người bị bệnh, nếu như muốn được khỏi bệnh, người này cần phải có đủ công đức và trí tuệ. Nếu như thiếu đi một trong hai thứ công đức hoặc trí tuệ thì kết quả là người bệnh sẽ không thể có được phương thuốc cần thiết hay không thể tìm được vị thầy thuốc chân chính để chữa bệnh cho anh ta, hoặc anh ta có thể vào nhầm bệnh viện, gặp phải vị thầy thuốc không thích hợp và hiểu sai về đơn thuốc do bác sĩ kê cho.

Trong trường hợp của sự thực hành tâm linh, một người nếu như không gặp được bậc thầy chân chính, thiếu sự hiểu biết để phân biệt được đâu là giáo pháp chân chính còn đâu không phải, thì cũng có thể coi như người này đã thiếu đi trí tuệ và công đức. Cho dù có gặp được bậc thầy chân chính, đón nhận được giáo pháp chân chính và tham gia vào một chúng hội những hành giả tu tập chân chính, nếu như không biết trân trọng những thuận duyên này, thay vào đó lại bắt đầu sa đà vào những cuộc chỉ trích, than vãn và tán gẫu vô bổ thì cũng coi như thiếu công đức và trí tuệ.

Chúng ta vẫn thường nói rằng khổ đau của chúng ta cũng như mọi thảm họa, mọi nghịch cảnh, thiên tai, chiến tranh, thất bại và bệnh tật, tất cả những gì đang xảy ra trên thế giới của chúng ta ngày nay đều là sự cộng hưởng của rất nhiều kết quả do bởi sự thiếu kém công đức và trí tuệ. Chính vì vậy nên việc thực hành miên mật và đầy thiện xảo nhằm tịnh hóa là vô cùng quan trọng và khẩn thiết. Sự tịnh hóa theo nghĩa tẩy trừ mọi tội lỗi và chướng ngại đã tích tụ từ vô thủy cho tới nay, giờ này đang xuất hiện dưới hình tướng những nghiệp quả đang chín mùi. Tất nhiên, bên cạnh việc thực hành tâm linh, tất cả chúng ta đều cần tích cực nỗ lực ngăn chặn mọi bất thiện nghiệp, sám hối hết thảy bất thiện nghiệp do chúng ta tạo ra bởi thân, khẩu, ý và phát nguyện không bao giờ tái phạm những lỗi lầm đó nữa. Ngoài ra, chúng ta cũng cần tích cực tham gia vào mọi hoạt động thực tế để cứu trợ mọi chúng sinh, bất cứ khi nào chúng ta có điều kiện. Điều này cần phải được thực hành chứ không thể nói suông.

Từ vài năm trước, tôi đã cố gắng để ý rất nhiều nơi và tìm kiếm một mảnh đất nhỏ tại một thánh địa, nơi những ân phúc gia trì vẫn còn nguyên vẹn chưa hề bị ảnh hưởng bởi những hoàn cảnh xấu, để có thể xây dựng nên tòa Kim Luân Chân Ngôn Trăm Âm. Với rất nhiều những thiên tai, chiến tranh và những tai nạn đau lòng đang diễn ra hàng ngày xung quanh chúng ta, tôi nghĩ có thể xây dựng nên một chuyển chú như vậy càng sớm bao nhiêu thì sẽ càng lợi lạc bấy nhiêu.

Thật trùng hợp làm sao, khi ý nghĩ cần nhanh chóng xây dựng thôi thúc tâm trí tôi, thì cùng lúc tuần vừa rồi, có người đã phát tâm cúng dường một mảnh đất đủ lớn để xây tòa Kim Luân, và mảnh đất này lại nằm đúng ở chân Tháp Swayambhunath, dọc theo con đường vi nhiễu bảo tháp. Tôi thực sự vô cùng hoan hỷ, vì sự việc này khiến tôi càng cảm thấy tự tin và khích lệ hơn, rằng dù sao nghiệp của chúng ta cũng không phải quá tồi tệ và tiêu cực, và chúng ta vẫn còn có cơ hội. Việc duy nhất còn lại bây giờ là cùng chung sức để thực hiện tâm nguyện này. Trong tương lai, khi dự án này hoàn thành, chúng ta sẽ luôn có các pháp hội thường niên để cùng nhau tu tập, trì tụng chân ngôn và tịnh hóa hết thảy bất thiện nghiệp, dù là biệt nghiệp hay cộng nghiệp.

Trong rất nhiều kinh điển đều dạy rằng nếu một câu chân ngôn có thể được trì cùng với một kim luân chứa đựng nhiều chân ngôn trong đó, thì kết quả sẽ được nhân lên với số lượng chân ngôn được chứa trong kim luân đó. Tòa kim luân của chúng ta sẽ chứa một tỷ chân ngôn Kim Cương Tát Đỏa Trăm Âm. Mỗi vòng quay sẽ có kết quả như một tỷ lần trì chú Trăm Âm. Điều này thực sự sẽ là một thành tựu lớn lao đối với vô số người trong chúng ta. Ai nấy đều biết để trì đủ 100,000 lần chú Trăm Âm sẽ mất thời gian như thế nào, bất cứ hành giả nào thực hành Ngondro đều hiểu rõ điều này.

Có vô số cách để tích lũy công đức và trí tuệ. Một trong những phương tiện thiện xảo là dùng sự tịnh hóa. Không cần phải giải thích dài dòng, ai nấy đều biết chúng ta có nhiều thứ cần tịnh hóa, vì chúng ta đều không biết trong vô số đời trước chúng ta đã tích lũy những gì. Có lẽ chúng ta đã tích lũy cả những nghiệp tốt và nghiệp xấu. Và chẳng ai trong số chúng ta muốn gặp chướng ngại và đều mong muốn hạnh phúc, vậy thì tại sao chúng ta lại không nhanh chóng tịnh hóa hết bất thiện nghiệp? Có thể nói Đức Phật Kim Cương Tát Đỏa là Đức Phật giúp tịnh hóa tội nghiệp. Ngài đã phát nguyện rằng dù chỉ còn sót lại một bất thiện nghiệp của chúng sinh chưa được tiêu trừ thì Ngài cũng sẽ không nhập Niết bàn. Như vậy nghĩa là lời nguyện hộ trì chúng sinh tịnh hóa bất thiện nghiệp của Ngài mạnh mẽ tới mức nếu trì tụng chân ngôn của Ngài, chúng ta sẽ được tịnh hóa trên mọi bình diện.

Drukpa Asia đã chuẩn bị một trang web đưa tin rõ ràng về dự án này (www.vajrawheel.org). Vì vậy tôi cũng không cần phải nhắc lại ở đây. Cho dù nghiệp không bao giờ ngừng nghỉ song ít nhất những bất thiện nghiệp của chúng ta có thể được tịnh hóa nhờ vào Kim Luân Kim Cương Tát Đỏa, mỗi vòng quay lại tỏa ra những nguồn năng lượng của ân phúc gia trì lan tỏa tới toàn thế giới và rộng ra cả vũ trụ. Lần tới đây, tôi sẽ chia sẻ thêm về pháp thực hành tịnh hóa cũng như về công dụng của việc trì tụng chân ngôn Trăm Âm.

Đức Gyalwang Drukpa XII

www.drukpa.org

Phát triển niềm vui trong sự tu tập

Phát triển niềm vui trong sự tu tập là điều quan trọng vì làm cho sự tu được nhẹ nhàng. Nếu chúng ta luôn buồn bã, nhắc đi nhắc lại rằng “Tôi đã đau khổ, thật khó khăn” điều đó trở nên nặng nề và sự tu trở thành một việc nặng nhọc. Nếu ta vui vẻ, ta tự nhủ: Hôm qua mình có làm một lời nguyện ước, hôm mình thi hành nó, mình làm việc vì chúng sinh. Mình làm việc với chính mình, vì họ. Các khó khăn có nổi lên, thật tuyệt vời! Nghiệp mà mình đã tạo nay chính mình có thể thanh tịnh hóa nó. Hôm nay mình có thể giải thoát khỏi các việc làm khi xưa của mình một cách hoàn toàn, thật là thần kì”

Sự chú ý đến chúng sinh có hai hậu quả: một hành động có ích cho họ, một tác động thanh tịnh hóa đến với chúng ta. Ngoài ra có thể thấy rằng tất cả đều tương đối. So với thử thách mà ngài Milarepa phải chịu đựng trong một số năm, thì những gì mình có thể chịu đựng lúc này, dù có vẻ to lớn thật ra rất bé nhỏ. Ngài Milarepa đã vượt qua tất cả. Hiện giờ sự tu rất khó đối với chúng ta, nhưng đời của Ngài là một mẫu mực và một nguồn cảm hứng, vì vậy chúng ta có thể thực sự quy y nơi Ngài và phát triển niềm vui, nghị lực và niềm tin đối với tất cả các vị đã chứng đắc của dòng tu.

Nếu chúng ta cảm thấy sợ sệt trong khi tu, đó không phải là dấu hiệu tốt nữa. Chúng ta bắt đầu tu nhưng với một niềm lo ngại, chúng ta lo lắng sẽ có chuyện gì xảy ra với chúng ta. Muốn làm việc vì chúng sinh, có lẽ chúng ta sẽ mệt? Có lẽ chúng ta sẽ chẳng được gì cho chúng ta? Hoặc sẽ gặp bệnh, gặp những vấn đề vật chất hay tâm linh? Chúng ta sợ các trở ngại mà chúng ta có thể gặp. Vì các lý do đó chúng ta rất rụt rè trong sự tu. Chúng ta tiến lên nhưng rất thận trọng, rất sợ những gì có thể xảy ra. Điều đó cho thấy chúng ta thiếu tin Tam Bảo. Sự quy y không thành thật và không sâu. Nếu chúng ta hoàn toàn tin vào sự ban phước và sự bảo vệ của Tam Bảo, chúng ta tiến trên con đường mà không hi vọng, không sợ hãi gì. Chúng ta đối diện với những chướng ngại ngay khi chúng nổi lên, bằng cách thanh tịnh chúng, biết rằng chúng là kết quả của quá khứ và không sợ sệt một cách đặc biệt. Trong sự mở tâm thức ấy, tâm được thư giãn và các màng che lấp trí tuệ tan đi. Các tham, sân, si hiện ra, biến đi và được thanh tịnh. Các chướng ngại không còn là chướng ngại, vì chúng ta biến đổi chúng ngay lập tức. Chúng ta luôn vui, tin tưởng, chắc chắn. Đó là dấu hiệu của một sự tu đúng.

Chúng ta có thể noi gương các vị Thầy của dòng tu Kadampa. Các Ngài tu theo phép “Lojong – cho và nhận”. Các Ngài thường xem những gì xảy ra đến với một tâm không đổi, tự nhủ rằng “ Nếu tôi phải ốm, tôi hãy ốm. Nếu tôi phải chết tôi hãy chết! Nếu tôi phải sống tôi hãy sống!”. Thái độ đó cho thấy sự tin tưởng tuyệt đối nơi Tam Bảo và sự dâng hiến toàn thân, khẩu, ý của họ. Nếu chúng ta phải ốm, chúng ta đi rửa nghiệp của chúng ta. Chúng ta thanh tịnh hóa tất cả những gì xấu nơi chúng ta. Nếu chúng ta phải chết, không có gì trầm trọng. Đó là kết thúc bình thường của cuộc đời. Dù sao đi nữa, với niềm tin nơi Tam Bảo mà chúng ta đã phát triển tâm ta, tâm thầy, tức tâm Phật, được hoàn toàn kết hợp. Sự chết sẽ là một sự chứng đắc nhiều hơn là một sự biến đi. Và nếu chúng ta phải sống khỏe, chúng ta có thể phục vụ những chúng sinh khác. Chiều hướng ấy của tâm phải dẫn dắt ta trên suốt đoạn đường dẫn đến giác ngộ.

Lama Gendun Rinpoche
Việt dịch: Ani Ngawang Kuntchok Dreulma Viên Huệ
Trích: Thầy và đệ tử

Mười điều Đức Phật dạy trước khi chết

Đối với Phật tử và người từng thọ trì một pháp môn nào đó thì thật là thuận lợi nếu họ được chúng ta nhắc lại mười điều Phật dạy trước khi chết như sau:

1. Không nên khởi niệm tham đắm chấp thủ mọi dục vọng ở đời này. Nên cố gắng và tránh hướng tâm ái luyến đến người thân của mình, vì dẫu đời sau có gặp lại thì cũng phải chia lìa. Trong thời điểm hấp hối, ta phải bỏ tất cả mọi thứ lại phía sau. Ta cũng không nên chấp đắm tấm thân của mình, vì lúc chết ta phải rời bỏ nó. Ta không luyến tiếc các thứ như thức ăn, áo quần, nhà cửa, vì những thứ ấy cuối cùng cũng từ bỏ ta.

2. Ta nên phát khởi lòng bi mẫn và thương yêu đối với mọi chúng sanh.

3. Ta nên đoạn tận mọi phẫn uất và thù hằn, nếu không thì nó sẽ làm hại ta trong kiếp sau.

4. Tất cả các giới pháp mà mình thọ trì nếu đã vi phạm thì phải cố gắng sám hối cho thanh tịnh trước khi chết.

5. Ta phải phát tâm dõng mãnh trong đời vị lai sẽ thọ trì và giữ giới pháp thanh tịnh.

6. Ta phải cảm thấy đau xót về những ác nghiệp mà mình đã gây tạo cho người khác trong đời này và phải sám hối để dễ dàng tái sanh.

7. Ta phải nhớ đến những công đức mà mình đã làm trong đời này, về những công đức của người khác đã làm và phát tâm sẽ tiếp tục làm trong vị lai.

8. Ta nên nghĩ đã đến lúc mình phải ra đi để đến đời sau, không có gì sợ hãi cả, vì đó là quy luật tự nhiên có sinh ắt có tử.

9. Phải quán thấy mọi sự vật hiện tượng đều do nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên mà hoại diệt.

10. Ta phải quán thấy rằng mọi sự vật hiện tượng đều vô ngã để ta vượt thoát khỏi sầu và đạt được sự an lạc.

Geshe Lamrimpa
Nguồn: Tác phẩm Chết và tái sinh, Quảng Đức Tùng thư 2019

Bài thiền hơi thở chỉ trong vài phút

Cuộc sống hàng ngày liên tục thử thách sự bình yên nội tại của mỗi chúng ta. Giữa một biến cố căng thẳng, dù là ở nhà hay ở nơi làm việc, chúng ta thường ao ước có được những khoảnh khắc bình yên mà một buổi thiền riêng tư, thanh tịnh mang lại. Nhưng trong cuộc sống hối hả hàng ngày dường như không tồn tại những khoảng thời gian như vậy.

Khi bạn cần đến những khoảnh khắc bình yên nhất, bạn phải tự tạo ra chúng. Những lúc như vậy, tạm nghỉ có chủ đích có thể giúp thân và tâm bạn tỉnh táo trở lại giống như là trong một buổi thiền dài vậy. Hãy đơn giản dừng lại và thực hiện một vài động tác thư giãn – hoặc chẳng thực hiện gì cả, như trong trường hợp này.

  1. Nếu bạn cảm thấy mình cực kỳ căng thẳng và đã gần vượt quá giới hạn chịu đựng, hãy dừng công việc đang làm lại. Nhắc nhở bản thân rằng đây là thời điểm thích hợp để thực hiện một bài thiền nhanh chóng giúp cho tâm trí tỉnh táo và thư giãn.
  2. Tạm dừng mọi suy nghĩ và nhắc nhở bản thân rằng tại thời khắc này, sự bình yên nội tại quan trọng hơn tất cả. Hãy nghĩ về sự bình yên ấy như một nơi chốn bên trong bạn. Trong lúc đó, hãy duỗi thẳng xương sống và nâng cằm lên. Tập trung hướng mắt lên phía trên đầu, nhìn vào trần nhà hay tường.
  3. Chậm rãi, khoan thai hít vào một hơi có chủ đích. Hãy tưởng tượng cánh cửa dẫn tới nơi chốn bình yên trong bạn đang mở ra khi không khí tràn vào phổi bạn. Khi thở ra, hãy biết ơn khoảnh khắc đã cho phép bạn nghỉ ngơi ấy, rồi quay trở lại công việc đang giải quyết.

Nguồn:http://www.daibaothapmandalataythien.org/bai-thien-hoi-tho-chi-trong-vai-phut-khi-ap-luc-cong-viec-qua-suc-chiu-dung

Cái nhìn xấu ác

Có một người rút vào rừng núi miền Đông Tây Tạng để thực hành phép tu viễn ly. Người Tây Tạng gọi phép tu đó là Chod có nghĩa là “cắt đứt” vì mục đích của phép này là cắt đứt mọi tư tưởng quán chiếu sai lầm, thứ tư tưởng chỉ làm che đậy thể tánh trong sáng của tâm thức.

Buổi sáng, người đó rời lều kiếm một tảng đá để thực hành thiền định thì người em gái mang lại một hũ sữa chua và thực phẩm cho ông. Người em đợi đến buổi tối mà ông ta chưa về nên đặt bình sữa lại dưới bàn thờ và trở về nhà. Lúc ông tu sĩ nọ về tới túp lều thì trời đã tối và không thấy gì cả. Sau bàn thờ chỉ có một ngọn đèn mỡ tí hon, chiếu một cài gì tròn tròn ông chưa bao giờ thấy. “Đó là con mắt của một con ma”, ông bỗng sợ hãi, nhưng cũng lúc đó ông định thần nói: “Không, tất cả mọi sắc thể đều là Không và không có thực”. Ông cẩn thận tháo túi đeo vai và đập lên con mắt, đồng thời lòng tự nhủ kẻ tu phép viễn ly không sợ bất cứ điều gì ở thế giới này hay thế giới khác.

Bình sữa nghiêng một bên và sữa chua văng tung toé mọi phía. Sắc trắng của sữa chập chờn trong ánh sáng mờ mờ như hàng trăm con mắt ma quỉ. Người đó sợ hãi đập loạn xạ, con mắt ma bây giờ đã dính lên túi sách và lan ra khắp nơi. Người tu sĩ bỗng nhớ chỉ còn cách “cắt đứt”. Chỉ một thoáng, ông tách lìa ra khỏi tâm thức đang bị vô minh che phủ, ở đây hiện hành sự sợ hãi và nhận ngay ra tay mình đầy sữa. Cái nhìn của chính ông đã thay đổi, hết lo sợ và thế giới cũng thay đổi theo. Ông cười to.

Surya Das
Việt dịch: Nguyễn Tường Bách
Nguồn: Sư tử tuyết bờm xanh

Bức tượng biết nói

Đức Phật

Kongpo là một tỉnh ở miền Nam Tây Tạng mà dân vùng đó có tiếng là đầy tín tâm và không mấy người có trình độ hiểu biết.Trong số các tu viện Tây Tạng thì ‘Jokhang’ tại Lhasa là linh thiêng hơn cả. Trong viện có một tượng Phật rất xưa, trình bày Phật Cồ-đàm hồi còn niên thiếu và được mang tên là Jowo Rinpoche (Đức hạnh cao quý). Tượng Phật này được mang từ Trung Quốc qua Tây Tạng cả ngàn năm trước và là phẩm vật của một công chúa kết duyên với vua Tây Tạng thời đó. Ben, một thanh niên vùng quê Kongpo, suốt đời mơ ước được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tu viện Jokhang, của tượng Phật linh thiêng nhất Tây Tạng. Một ngày kia, Ben được lên đường đi Lhasa để tận mắt chiêm bái thánh địa này.

Sau một chuyến đi khổ nhọc, cuối cùng Ben đến kinh đô Lhasa, đi như người mất hồn trong các con đường của ‘thành phố chư thiên’ này… nhìn thấy điện Potala, Ben thật là xúc động, đó là nơi mà đức Quán Thế Âm đang hiện tiền dưới dạng của vị Đạt-lai Lạt-ma. Đáng xem thay, dòng người vô tận đang đi vòng xung quanh điện Potala! Thật tuyệt vời, vẻ đẹp của điện Norbu Lingka, cung điện mùa hè của vị nguyên thủ quốc gia, với bao nhiêu chạm trổ và các bảo tháp đầy tính nghệ thuật. Cũng không được bỏ qua các tu viện đáng trọng nhất như Sêra và Drepung, nơi đào tạo Tăng sĩ. Ben tự nhủ thầm: ‘may mắn thay cho ta, đời ta còn có thể thấy được những nơi này’.

Sau đó Ben vào tu viện Jokhan, và kìa, tượng Jowo Rinpoche trong thế ngồi liên hoa, to như người thực, tỏa ra một cảm giác tôn quý thầm lặng mà vĩ đại. Ben quỳ lạy trước bức tượng ba lần, nhưng lần nào hầu như cũng mắc kẹt với đôi ủng cũ kĩ, rồi chiếc mũ đầy bụi của Ben lại rơi xuống đất. Ben cởi ủng, cầm mũ, đặt lên lòng bức tượng đang mỉm cười yên lặng và nói: ‘Hỡi Jowo Rinpoche, hãy coi chừng giùm các thứ này để cho con yên tâm chiêm bái tiếp’. Ben đi chân không vòng quanh bức tượng vàng, vui thích ngắm hàng chục ánh đèn dầu trên bục tượng và đủ các loại bánh trái để bên cạnh. Ben cám ơn đức Phật toàn trí và dưới lòng từ bi tỏa sáng của Jowo Rinpoche, Ben mạnh dạn lấy bánh, nhúng vào dầu thắp đèn và ăn ngon lành. Đáp lại lòng từ bi của Phật, Ben hứa lớn tiếng sẽ đón Phật bất cứ lúc nào tại Kongpo. Vì làm nghề mổ heo, Ben hứa sẽ mổ con heo mập mạp nhất, cho đủ thứ gia vị để chiêu đãi Phật. Ben đâu biết rằng đạo Phật chủ trương không giết hại loài vật và hoàn toàn tin rằng lời mời của mình sẽ được Phật nhận lời. Ngay lúc đó thì cửa mở toang, vị sư già giữ đền bước vào. Vị sư đứng sững người nhìn đôi ủng dơ bẩn và chiếc mũ rách nát trên lòng đức Phật và nhìn thấy bột bánh đang dính vào râu của Ben. Vị sư giận giữ chụp đôi ủng và chiếc mũ trên lòng tượng Phật, bỗng một tiếng nói huyền bí cất lên: ‘Dừng tay, các thứ này của đứa học trò yêu quý ở xứ Kongpo của ta!’

Vị sư run bắn người, đi lui mười bước. Ông nằm dài xuống đất và xin tượng tha thứ sơ xuất của mình. Sau đó ông rút lui, để Ben ở lại một mình trong phòng, để cho chàng thanh niên này tiếp tục nói chuyện theo cách riêng của anh ta với vị ‘Đức hạnh cao quý’.

Sau đó Ben về lại với gia đình tại Kongpo, nhưng tin đồn bức tượng nói chuyện với chàng đã về trước, nếu có ai hỏi gì về tin đồn đó, Ben chỉ nói lơ: “Ôi, thời buổi này chẳng biết tin nào đúng tin nào sai’. Người ta đồn rằng, bức tượng quả nhiên đã nhận lời mời của chàng Ben thật thà và hiện ra trước mắt chàng trong một dòng suối gần nhà. Ben thò tay vào nước vớt tượng đi được một vài bước, nhưng cuối cùng vì tượng nặng quá nên Ben để Phật rơi xuống đất. Tượng chìm xuống đất cả thước và mọi người đều có thể chiêm ngưỡng bức tượng đó.

Đến ngày hôm nay, dân làng Kongpo vẫn còn đi quanh hố đất với dấu tích của Jowo đang mỉm cười và lạy tượng bằng cách cúi đầu sát đấtTu viện Jokhang ở kinh đô Lhasa có thể rất xa nhưng người biết chuyện tin rằng vị ‘Đức hạnh cao quý’ thì ở rất gần họ.

Surya Das
Việt dịch: Nguyễn Tường Bách
Nguồn: Sư tử tuyết bờm xanh

Giải thoát mọi loài

Một vị Lạt-ma già nọ kiếm được một tảng đá bằng phẳng bên cạnh một cái hồ để chuyên tâm thiền định. Mỗi ngày ông đều ngồi đó. Đó là một cái hồ đầy ếch nhái chuyên ăn côn trùng. Nhưng cứ mỗi lần bắt đầu ngồi thế liên hoa để đạt tâm thức sâu kín của tự tính thì lại một lần ông thấy một côn trùng giãy giụa trong nước, dường như cần đến ông giúp đỡ. Lần nào cũng thế, vị sư già lại phải xuất thiền, lại cử động cái xương cốt đã già, lại giải cứu thứ côn trùng tí hon này, sau đó mới lại nhập định.

Lần lần các vị tu tập thiền định và Lạt-ma khác bắt đầu chú ý đến ông, một người không bao giờ ngồi yên và hầu như dùng thời gian thiền định để giải cứu côn trùng. Tuy người Tây Tạng nào cũng biết cần cứu vớt loài vật, nhưng có vài vị Tăng khuyên ông nên kiếm một chỗ khác thiền định chứ đừng ngồi bên hồ nữa. Họ nói: ‘Nên chăng đi kiếm một nơi khác mà ngồi để thiền định, không ai quấy rầy?’ Có người nói: ‘Nên chăng trước hết cần thoát khỏi mọi ảo giác? Sau đó, khi đã giác ngộ ta có thể giúp mọi loài hữu tình, chứ không thể giúp như thế’. Một Lạt-ma trẻ tuổi khác lại nói: ‘Nên chăng khi thiền định cần nhắm mắt lại để chuyên tâm quán tưởng vào cái chủ yếu nhất, tính vô thường của chính bản thân tâm thức mình’. Sau khi nghe mọi lời góp ý, vị Lạt-ma già cúi đầu cảm ơn các Tăng sĩ và nói: ‘Các bạn có lý, hỡi các vị nam nữ. Nhưng một kẻ già yếu và thấp kém như tôi, đã nguyện theo lòng từ bi của đức Quán Thế Âmthực hiện hạnh nguyên đó trong đời này và mọi đời sau, lại có thể ngồi yên và đọc mật chú đại bi trong lúc loài hữu tình bất hạnh đang chết đuối trước mắt mình?’

Không ai trả lời cả.

Surya Das
Việt dịch: Nguyễn Tường Bách
Nguồn: Sư tử tuyết bờm xanh

Lòng từ bi hơn tất cả mọi thứ

Bàn Thờ Quy Y Tam Bảo và Tam Căn Bản

Cách đây trên hai ngàn năm, trong thành phố Sravasti ở Ấn Độ có một gia đình Bà-la-môn sinh được hai người con trai. Người con cả có trí thông minh hiếu học, còn đứa em tên là Chunda thì rất kém, không biết đọc, biết viết, tất nhiên không thể làm tròn trách nhiệm người con thuộc một gia đình tu sĩ.

Sau khi người cha mất, hai người con trai gặp một đệ tử của Phật Cồ-đàm và không bao lâu sau người con lớn trở thành thành tu sĩ được theo chân đức Phật và được gia nhập giáo hội. Trong lúc đó Chunda cũng lui tới, nhưng chỉ biết giành ăn với chó mèo mà thôi. Người anh lớn hỏi ý kiến A-nan, người hầu cận thân tín của Phật, rằng liệu một kẻ có trí khôn tệ hại như Chunda được phép gia nhập tăng già chăng. A-nan nói “Đem em ngươi lại cho đạo sư và trực tiếp hỏi ý kiến của Ngài”.

Lúc đầu Chunda không dám lại gặp Phật vì tự thấy không xứng đáng và quá ngu dốt, nhưng nhờ ông anh chỉ rằng giáo pháp này lấy lòng từ bi làm chính, nên cuối cùng Chunda mới chịu. Chunda đến gặp Phật một cách sợ sệt, theo giờ hẹn sẵn, lúc Phật đang tiếp chuyện trong một vườn cam. Chỉ nhìn qua, Phật Cồ-đàm đã thấy ngay tính khiêm tốn và lòng nhân hậu của con người trẻ tuổi này và cho phép A-nan thu nhận làm môn đồ.

A-nan khai thị Chunda bằng bài kệ:

“Xa lánh mọi tư tưởng xấu, cái có thể mang lại hành động xấu.
Tha thiết quên mình và sẵn lòng phụng sự,
Tránh không bám giữ nơi cái Ngã.
Thanh tịnhtỉnh giác và trong sạch, đúng như tự nhiên,
Thì không có khổ não nào có thể xâm lấn.
Đó là đạo lý của người giác ngộ.”

Ba tháng trôi qua, anh chàng Chunda tội nghiệp vẫn không thuộc nổi một câu kinh mà bất cứ kẻ chăn trừu nào cũng thuộc được. Trong lúc đó thì các vị Tăng sĩ trẻ tuổi đã thuộc nằm lòng từng chồng Kinh sách. Chunda thất vọng hỏi ý kiến A-nan. A-nan vừa mới giải thích xong thì đã khám phá ra Chunda không thể lĩnh hội gì cả, không có câu nói nào nằm lại trong óc chàng. A-nan tự nhủ: “Được cái gì? Người này gia nhập giáo hội để làm gì khi không thể nhớ điều nào trong đầu?” A-nan chỉ ban phước cho Chunda và cho chàng nghỉ việc. Chàng thất vọng, ra ngồi khóc vườn cam và khóc, khóc mãi cho đến khi Phật đi qua. Phật biết ngay những gì vừa xảy ra và khuyến khích Chunda kể lại câu chuyện. Chàng thút thít: “Không hiểu điều gì đã xảy ra cho con? Con muốn trở thành đệ tử của Thế tôn và được học pháp của Ngài, thế mà không nhớ được điều đơn giản nhất. Nghiệp nào làm con không thể hiểu biết được?”

Phật Cồ-đàm giải thích, trong kiếp cuối cùng chàng là một Bà-la-môn thông thái và là người tự cho mình tài giỏi hơn thiên hạchê trách không hết lời những quan điểm của người khác. Quá chủ quan, chàng tự cho mình là đạo sư và truyền bá các quan điểm sai lầm làm nhiều kẻ tầm đạo phải lạc lối. Vì sử dụng sai lạc sức mạnh của tư tưởng, Chunda phải chịu học hỏi “mặt kia của đồng tiền” trong kiếp này và trở thành kẻ ngu dốt để nhiều người chê bai.

Chunda đáp: “Từ hồi nhỏ thầy giáo đã chê con là người khó lĩnh hội. Làm sao thoát khỏi ách nạn này?”

Phật trả lời bằng câu kệ:

“Được bậc hiền giả hướng dẫn,
tốt hơn là được kẻ khờ ca tụng.
Ai biết rằng mình còn vô minh dại dột,
kẻ ấy mới là một hiền giả đích thực.
Ai tưởng mình là một hiền giả, dù không nói ra,
thì đích thực là một kẻ dại khờ”.

Sau đó, Chunda được Phật Cồ-đàm đích thân chỉ dạy. Nhằm làm sáng tỏ đầu óc của Chunda, Phật bảo chàng ngồi mỗi ngày đều quét đền và quét các đường đi quanh đền . Trong công việc đó, chàng chỉ nên nhớ đến hai câu duy nhất “Chùi sạch bụi, chùi sạch dơ bẩn”. Ngoài ra Chunda phải chùi sạch tất cả giày dép của các vị Tăng sĩ khác. Chunda vội bắt đầu công việc. Vừa mới cầm chổi quét, chàng quên ngay hai câu nọ. May thay chàng gặp A-nan đang ngồi giữa sân đền và nhờ nhắc lại hai câu đó. Sau đó một thời gian lâu, Chunda mới thuộc được hai câu này. Vài tháng sau thì chàng thuộc lòng và lúc nào cũng lẩm bẩm câu này, tay cứ quét, quét và quét và chùi giày từ đôi này qua đôi khác. Phật để tâm quan sát sự cố gắng của vị tiểu tăng này và có cách làm cho lúc nào đền cũng đầy bụi và giày dép lúc nào cũng lấm bùn để Chunda có việc làm liên tục từ sáng đến tối. Với sự cẩn trọng và tha thiết, Chunda từ từ đi vào chiều sâu của câu nói “Thế tôn nói bụi là muốn nói bụi ở bên ngoài hay bên trong? Mà bụi ở bên trong là gì?” Cứ thế mà chàng trở thành người học trò chuyên sâu nhất, song song đó chàng lại đi phụng sự cho các bạn đồng học.

Ngày nọ, Chunda tung chổi quét đền, và tâm thức đại định của chàng đã đạt đến mức rất sâu thì một câu kệ của Phật bỗng nhiên bừng sáng, trở thành một câu Kinh đầy ý pháp, một câu chàng không biết và cũng chưa bao giờ nghe:

“Bụi chính là sự ràng buộc, sự níu kéo, sự vướng mắc,
Không phải là bụi cõi trần;
Bậc hiền giả từ bỏ thứ bụi đó.
Dơ bẩn chính là sự giận dữ,
Không phải là sự ô uế thông thường;
Bậc hiền giả từ bỏ các lớp uế nhiễm nhiều tầng đó,
Và trở nên tự tại”.

Chunda nghe các lời kệ đó và trực nhận ra rằng cái Ta giả tạo do ba thứ tham đắm (Tham), giận dữ (Sân) và vô minh (Si) sinh ra. Như vậy người tỉnh dậy từ một cơn ác mộng, chàng thấy rằng lâu nay mình cứ tự động hòa mình với cái Ta, cái đó không gì khác hơn là một lớp dơ bẩn mà chàng vừa quét đi. “Rõ như ban ngày, hoàn toàn rõ ràngCảm tạ đức Thế tôn”. Chàng đứng đó, tay còn cầm chổi, nhưng đã đi xuyên suốt hết các tầng bụi bặm của sự ảo giác! Sau lần giác ngộ này, Chunda còn tu học thiền định hàng năm trời và sau đó Phật trao nhiệm vụ cho Chunda đi từ làng này qua làng nọ để đánh thức người tầm đạo. Kẻ “Chunda bất trị” nay đã trở thành “A-la-hán Chundaka, người quét đường” đi vào lịch sử Phật giáo và chứng minh rằng, có hàng ngàn con người với đầu óc giản đơn, thậm chí lòng đầy nghi ngờ và hoàn toàn không được chuẩn bị, thế mà vẫn có thể được đưa vào các cấp bậc giác ngộ chỉ với bằng những câu nói giản dị.

Trong các đệ tử, Phật Cồ-đàm xem kẻ quét đường Chundaka là người khôn khéo nhất khi chuyển hóa tâm thức. Ngày nay người ta vẫn nói, những ai muốn phát triển tâm thức nên thành tâm cầu đến trợ lực của Chundaka, nhất là khi nghe các vị đạo sư giảng giải làm họ không hiểu cũng chẳng nhớ. Chundaka là một thí dụ lịch sử sinh động nhằm minh chứng rằng, lòng nhân hậu và sự tha thiết thực hành các phép tu có khi quan trọng hơn xa một đầu óc trí thức sắc sảo.

Surya Das
Việt dịch: Nguyễn Tường Bách
Nguồn: Sư tử tuyết bờm xanh

Chiếc răng chó mầu nhiệm

Ngày xưa có một bà lão sống với đứa con trai. Đứa con làm nghề buôn bán, phải đi Ấn Độ và Tây Tạng thường xuyên. Ngày kia, đứa con trai sắp phải lên đường đi Ấn Độ thì bà mẹ bảo: ‘Giác Thành’ (Bodh Gaya) tại Ấn Độ là nơi đức Phật Thích-ca thành đạo, vì thế mẹ nhờ con mang về một ít xương tro hay bùa chú, pháp khí gì đó. Mẹ sẽ thờ và xem như sự hiện diện của chính đức Phật trong nhà mình. Năm này qua năm khác, bà mẹ nhắc nhở đứa con, nhưng lần nào đứa con cũng về lại Tây Tạng mà không thực hiện được lời mẹ dặn.

Một ngày nọ, đứa con lại lên đường đi Ấn Độ và bà mẹ nói: ‘Nếu lần này con không mang gì cho mẹ từ Giác Thành về để mẹ thờ, thì mẹ sẽ tự tử chết thôi’. Đứa con lấy làm sợ lòng quyết tâm của mẹ, hứa lần này sẽ không quên.

Sau vài tháng làm việc, người con lên đường trở về nhà, bỗng nhớ rằng mình đã không ghé ngang Giác Thành để tìm xương tro cho mẹ. ‘Làm sao bây giờ ?’, anh ta tự hỏi ‘Mẹ ta sẽ tự tử thật đấy nếu không mang gì về cho bà’. Anh ta nhìn quanh thì thấy một con chó chết đã khô. Người con vội vàng nhổ một cái răng chó, quấn lại cẩn thận trong một chiếc khăn lụa. Về đền nhà, đứa con ra vẻ vui mừng bảo mẹ ‘Đây chính là một chiếc răng của Phật Cồ-đàm, bậc Chánh đẳng Chánh giác. Kể từ giờ phút đó, bà hết lòng thờ phụng chiếc răng và cũng không bao lâu sau đó, bà tìm được sự an lạc nội tâm, điều mà suốt đời bà ra công tìm kiếm. Cũng không bao lâu sau thì bạn bè và hàng xóm cũng nhận thấy rằng có một thứ ánh sáng ngũ sắc bao xung quanh chiếc răng, và những tia sáng huyền ảo chiếu trên đó. Mỗi ngày có nhiều người đến lạy bàn thờ của bà lão và xin được tiếp một chút năng lực của chiếc răng mầu nhiệm. Tới ngày bà lão chết, ánh sáng ngũ sắc cũng bọc quanh thân bà và miệng bà mỉm cười làm cho đứa con trai đang than khóc hiểu rằng, bà đang trở về tự tính, từ đó mọi vật được sinh thành.

Kể từ ngày đó người ta biết rằng, một chiếc răng chó cũng trở thành mầu nhiệm, nhưng với điều kiện đó là sức mạnh của một trái tim sẵn sàng tiếp nhận và lòng từ bi của một vị Phật kết hợp với nhau.

Surya Das
Việt dịch: Nguyễn Tường Bách
Nguồn: Sư tử tuyết bờm xanh

Bài mới nhất

Tán thán Đức Phật Thích Ca

Ngài là Lưỡng Túc Tôn vào lúc đản sinh, ngay trên đại địa bước đi bảy bước, tự tuyên: trong thế gian duy ngã...