CHIA SẺ

Avalokiteshvara Chaturbhuja (10)

6 – LÀM THẾ NÀO TRÌ CHÚ LÚC SỬ DỤNG TRÀNG HẠT

Chú là sự biểu hiện bằng âm thanh về tâm cảnh Giác Ngộ của ý thức. Phần lớn Chú ngữ là Phạn văn, ngắn gọn, đơn giản nhưng giàu năng lực tượng trưng. Tuy nhiên, Chú cũng có một ý nghĩa trên phương diện văn tự và cũng có thể dịch ra chữ Việt. Nhưng, công dụng cơ bản của Chú là do xuyên qua âm thanh của văn tự mà hướng hành giả biểu đạt bao nhiêu thứ tâm cảnh đặc thù của chính ý thức. Vì thế, Chú ngữ cần phải được tụng niệm một cách thường xuyên liên tục, càng nhiều càng tốt. Đặc biệt là phải đem hết tâm lực chuyên chú vào âm thanh của Chú và chuyên chú vào trí huệ tương ứng được tượng trưng ở đó. Lúc trì Chú, theo truyền thống, rất có nhiều người sử dụng cách lần chuỗi để ghi nhớ (tính đếm) nhưng điều này không tuyệt đối cần thiết.

Phật Giáo thường dùng chuỗi có 108 hạt, cộng thêm đầu mỗi chuỗi hạt (hạt lớn giống như bầu hồ lô). Mục đích lần chuỗi 108 hạt này chỉ là để ghi nhớ, đặc biệt nó rất hữu dụng khi có người muốn hoàn tất số lượng trì Chú trong một thời gian nhất định. Khi lần xong trọn vẹn một tràng chuỗi hạt thì chỉ tính có 100 lần Chú thôi (cộng thêm 8 đều chuỗi để phòng hờ trong trường hợp có một vài Chú khi tụng niệm không được chân thành, tha thiết hoặc không tập trung đầy đủ sức chú ý). Đồng thời 108 hạt cũng còn được ghi nhận như là một con số (số mục) có được sự kiết lợi (tốt đẹp và lợi lạc).

Trong lúc trì Chú, tràng hạt được lần bởi ngón tay cái và trỏ; một đôi khi trong những phương pháp tu tập cao cấp hơn, những ngón tay khác cũng đã được sử dụng. Có thể sử dụng tay phải hoặc tay trái nếu cảm thấy tay nào thuận tiện nhất với mình. Mỗi lần trì xong một Chú, lần một hạt chuỗi. Để bắt đầu cho tiến trình lần chuỗi, trước tiên, nên bắt đầu bằng hạt chuỗi kế cạnh hạt Đầu hạt của tràng chuỗi. Khi lần xong hãy dừng lại. Đừng tính tiếp đầu chuỗi mà phải lần ngược lại và cứ thế tiếp tục đã được chỉ dẫn.

Có thể sử dụng bất cứ tràng hạt được chế tạo bằng bất cứ vật liệu nào. Tràng hạt làm bằng hạt bồ đề được chế tạo tại Ấn Độ đã đặt biệt được mọi người ưa thích. Tràng hạt bằng gỗ đàn hương cũng là loại tràng hạt mà hầu hết Phật tử ưa thích. Trong những pháp tu đặc biệt, có người đã sử dụng những tràng hạt được đặc biệt chế bằng những chất liệu như ngà voi, san hô, pha lê, thạch anh, hoặc xương, v.v…

Sử dụng tràng hạt (phương pháp lần chuỗi) cũng có thể trợ giúp hành giả tập trung được tâm lực nơi Chú ngữ và quán tưởng. Vì vậy, cần phải tôn trọng và giữ gìn tràng hạt cẩn thận. Mỗi hạt chuỗi có thể được xem như là vật tượng trưng cho một vị Bồ Tát mà hành giả đang quán tưởng đến. Đồng thời, xem sợi dây dùng để xâu chuỗi là tượng trưng cho ý thức của Bậc Bồ Tát, tức Bồ Đề Tâm.

7 – CÁCH SỬ DỤNG CHÍNH VĂN CỦA BẢN TU PHÁP

Những gì được thấy trong Chương Hai vốn đã được phiên dịch từ bản gốc (chính) bằng tiếng Tây Tạng được soạn ra bởi Ngài Tangtong Gyalbo: “Quán Tưởng Thiền Định cho tất cả chúng sanh ở khắp cõi không gian” [những chữ hoặc những đoạn trong ngoặc là do dịch giả thêm vào để ý nghĩa của câu văn được sáng sủa thêm dễ hiểu hơn].

Nguyên văn trong chính bản trình bày rõ ràng chính xác về những gì cần phải quán tưởng và phải được thể nghiệm trong lúc mình quán tưởng. Phải tụng một cách hết sức chậm rãi qua từng đoạn [ngoại trừ những đoạn chú giải được đóng ngoặc]. Lúc đọc, có thể đọc lớn tiếng hoặc đọc thầm thầm cho chính mình, đồng lúc, từng bước một, phải tác quán tưởng theo mỗi lần đọc. Khi mỗi đoạn được hoàn tất có thể tạm nghỉ trong chốc lát rồi tiếp tục ôn lại trong tâm thức những gì mình đã quán tưởng từ đầu cho đến đó. Trong một đoạn như thế, thời gian bỏ ra (sử dụng) nhiều hay ít (dài hay ngắn) là hoàn toàn tùy thuộc vào nhu yếu và sở vọng của mỗi người.

Trong khi trì Chú, phải dốc hết toàn bộ quá trình quán tưởng mà mình có thể có, vào trong tâm thức mình. Hành giả cũng phải đem hết sức chú ý tập trung vào âm thanh của Chú ngữ và cố gắng nỗ lực thể hội thần thông lực của Chú (oai lực của Chú). Đại Bộ phận của thời gian tu Quán Tưởng (toàn thể thời gian tu Quán) sẽ được dùng vào việc trì Chú và cùng với sự Quán Tưởng Vô Tướng.

Sau khi trì Chú nên hoàn thành sự trì tụng và tu pháp thiền định theo chính văn ở đây.

Xin chú ý: Số chữ trong những dấu ngoặc là do sự thêm vào của dịch giả để thuận tiện cho việc phân thành chương tiết của pháp tu. Số chữ mà các đoạn đã nêu lên những số tương ứng được dùng để giải thích chi tiết cho mỗi đoạn trong chương ba.

CHƯƠNG III

GIẢI THÍCH 

Những tư liệu hàm chứa trong chương này đều đã được căn cứ vào truyền thống Tây Tạng chú sớ về Quán Âm Quán Tưởng Tu Pháp và đã được một số các bậc Thượng Sư hướng dẫn trực tiếp bằng khẩu truyền cho dịch giả.

1 – QUY Y (Trở về nương tựa)

Trong chương đầu tiên này, Pháp tu đã được diễn đạt về hai động cơ thiết cốt có tính cách sống còn chủ yếu nhất để tu học Phật Pháp là Thọ Quy Y và Phát Bồ Đề Tâm.

Hai linh niệm này luôn luôn nhất định phải được thể hiện trước bất cứ sự hành trì nào trong Phật giáo và thực sự đó là điều bắt buộc không thể thiếu được trên tiến trình tu học Phật Pháp của họ.

THỌ QUY Y

(Ba hàng văn đầu của chính văn tu Pháp) đã chính thức đưa ra như là một tiền đề xác định nơi quy y (trở về nương tựa) tối hậu và đồng thời cũng là lý tưởng tối cao của hành giả. Đó là PHẬT, PHÁP và TĂNG. Nói khác hơn, hành giả quyết định lấy Phật, Pháp. Tăng như là điểm quy hướng cơ bản tối hậu của sự xác chứng cho đến khi chính mình chứng thành Phật quả. Lúc thọ Quy Y, hành giả cần ghi nhớ rằng: Đức Phật là một bậc đã thật sự chứng được quả vị Chánh Giác một cách hoàn toàn viên mãn và Ngài đích thực là một khải thị tối cao là linh cảm, là nguồn cảm hứng vô tận đối với toàn thể Phật Giáo đồ. Pháp là những áo nghĩa, triết lý và phương tiện tối cao, tối hảo mà đại biểu là Kinh Tạng do Đức Phật giảng dạy, và Tăng là những đoàn thể thánh chúng, nói cách khác, Tăng là danh xưng chung để chỉ cho tất cả những thánh nhân quí phái cao thượng, có một đời sống thanh khiết, thánh thiện đã và đang nỗ lực tinh tấn phát triển trí huệ hầu thành tựu Phật Tánh. Như thế, Phật, Pháp, Tăng là ngôi tối tôn kính đối với toàn thể Phật tử.

Trong lúc trì tụng Kệ Tam Quy Y, hành giả cần phải quán tưởng rằng: bao quanh mình gồm có cha mẹ, bạn bè, oán cừu cho đến tất cả chúng sanh, và tất cả đều ngồi chung môt chỗ và đồng thọ Quy Y. Trong khoảng không trung ở trước tất cả chúng sanh là Phật, là chư vị Bồ Tát, những quyển Kinh tượng trưng cho Pháp, và đoàn thể Tăng già. Quán tưởng sự có mặt của Chư Phật và Thánh chúng sẽ làm tăng sức mạnh cho thệ nguyện lực quy y của hành giả.

Thông thường, khi thọ Pháp Quy Y lần đầu, tất cả đều hiện diện (thực hiện) trước mặt vị Thượng Sư và lễ thọ Quy Y này là mốc đánh dấu cho sự chánh thức tiến vào Phật đạo. Sau đó, việc lặp lại nghi thức đọc tụng Tam Quy Y Văn, nhất là trước khi quán tưởng thiền định là cốt giúp cho hành giả ghi nhớ mãi chủ hướng tối thượng và lý tưởng tối cao của mình.

PHÁT BỒ ĐỀ TÂM

(tức ba hàng chữ thứ hai của đoạn thứ nhất) là kết quả tất nhiên của sự thọ Tam Quy Y và đồng thời còn là cái chủ trương tối trọng yếu trong Phật pháp. Đoạn văn này nhấn mạnh: Cái mà hành giả đem hết nỗ lực để mong cầu giác ngộ chính là cái nhu yếu muốn lợi ích tất cả chúng sanh (hay: Tất cả sự nỗ lực của hành giả để đạt đến sự giác ngộ là vì sự lợi ích của tất cả chúng sanh). Nỗ lực này bao gồm tất cả phương tiện tu học của Phật giáo như: Bố thí, cứu giúp người (độ sanh), tụng kinh, tu tập thiền định, v.v… Hành giả nên thực hành những phương tiện này với một nhận thức minh mẫn rằng: Tất cả mọi nỗ lực đều nhắm vào mục tiêu tối hậu là chứng thành Phật quả để độ thoát chúng sanh, như thế (tức) có thể cấu thành một nguyện lực cường đại có đủ năng lực thẩm thậu khả dĩ biến đổi, chuyển hóa tất cả mọi sự kế tiếp. Mục đích của sự phát Bồ Đề Tâm này là nhằm tránh những sai lầm to lớn mà hành giả có thể vấp phải, đó là: Nỗ lực tu tập chỉ vì mục đích tư lợi.

Vì thế, trước khi mở đầu pháp tu thật tế này, hành giả cần để ra một vài phút quán tưởng để nhìn thấy mọi sự thống khổ mà vô lượng chúng sanh đang thọ nhận trong lúc luân hồi sanh tử trong thế gian. Trong Phật giáo, chúng sanh được phân làm sáu loại: Thiên, A Tu La, Nhân, Súc Sanh, Ngạ Quỷ và Địa Ngục Chúng Sanh (chúng sanh trong địa ngục). Phải thừa nhận rằng mỗi một loại chúng sanh đều tự có một lãnh vực sinh tồn của chính chúng, nhưng, nhìn từ một quan điểm khác thì, tất cả sáu loại hình thái sinh tồn đó đều có thể tồn tại ngay trong nhân loại (kinh gọi là Nhân thú hay Nhân đạo).

Trời (Thiên):

Là một loại ở trong thiên đường vật chất, nhưng sinh hoạt tâm linh của họ phát triển rất ít. Sinh mạng của họ sẽ chấm dứt, và lúc mà họ phát hiện cái nhược điểm đó của chính mình thì họ sẽ bị khủng hoảng đến sửng sờ và đau khổ đến cùng tột.

A Tu La:

Là một loại chúng sanh thuộc cảnh giới mà tánh khí nóng nảy, tật đố, ưa tranh chấp, có thể tranh đấu liên lỉ suốt đời và lại thiếu hẳn cơ hội để suy gẫm về những vấn đề (phương diện) tâm linh.

Loài Súc Sanh:

Là loài tánh tình ngu độn, đau đớn, và thiếu hẳn trí năng sáng suốt. Đời sống của chúng là một chuỗi cắn xé, giành giật để sinh tồn. Chúng cũng thường bị bắt buộc làm nô lệ cho những chúng sanh khác.

Ngạ Quỷ:

Là một cảnh giới (loài) luôn bị đau khổ bởi sự khát khao thèm muốn dục vọng cực độ mà họ không bao giờ có thể thỏa mãn. Vì lòng keo kiệt, bủn xỉn của chính họ mà không lúc nào họ không suy tìm thức ăn, áo mặc và vật dụng; dẫu thế, họ chỉ có thể tìm được một mẩu vụng nhỏ bé hoặc một mảnh giẻ rách mà thôi.

Chúng sanh trong Địa Ngục:

Thì hoàn toàn bị sự nô dịch hóa bởi lòng căm thù, oán hận của chính họ, vì thế mà họ phải nhận không biết là bao nhiêu sự cực hình tra tấn và đau khổ một cách vô hạn.

Loài Người:

Tuy họ cũng có thể có đầy đủ một số mức độ của tất cả những vấn đề đó, nhưng, họ dường như có vừa đủ mức độ trộn lẫn cả khổ đau và thông minh để có khả năng vượt qua sự giao tranh sinh tử và phát triển đôi chút khôn ngoan. Vì thế, loài người là một loại chúng sanh duy nhất khả dĩ có thể tu tập và phát triển Phật đạo. Suy xét thật kỹ thì, số sinh vật được làm người thì không được nhiều như những loại sinh vật khác, do đó, phải biết rằng được làm thân người là cả một điều may mắn, hy hữu. Nhưng, dù đã được làm thân người (nhân thú) cũng không sao tránh khỏi những vấn đề chủ yếu như: Bệnh tật, vô minh, cầu bất đắc khổ (mong muốn cầu xin mà không được thỏa mãn là một thứ KHỔ) và sự chết, v.v…

Mặc dù chúng ta có thể nhận thấy được sự đau khổ ở mặt phiến diện nhưng, không phải bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể thể nghiệm được mức độ xung kích cực độ của khổ đau nơi chính bản thân mình. Dù vậy, nếu suy nghĩ (thật cẩn trọng) về tính cách bao quát lan tràn của sự khổ đau đang tồn tại, nó sẽ kích phát được tâm từ bi của con người và đồng thời có thể khiến họ hưng khởi thệ nguyện vĩ đại để cứu độ tất cả sự đau khổ của chúng sanh. Chúng ta cần thể hội một cách toàn triệt trọng yếu tánh về sự phát triển cần thiết của trí tuệ để ra tay cứu độ một cách hữu hiệu tất cả chúng sanh, để tạo thành một thay đổi thật sự và toàn diện cho cả TÂM lẫn CẢNH của tất cả chúng sanh. Sự tri nhận một cách đầy đủ về nhu cầu khẩn yếu của việc đạt tới trí tuệ và từ bi có thể làm tăng cường sự mong muốn và quyết tâm của hành giả trong việc tu tập (pháp môn này), đồng lúc, sử dụng một cơ hội quý giá để thực hành Phật Pháp như là một nhân thể thông minh lành mạnh, khang kiện.

2 – HIỆN TÁC GIAI ĐOẠN (hay GIAI ĐOẠN HIỆN TƯỚNG)

Hiện tại, hành già đã được chính thức bắt đầu tiến vào phương pháp tu tập, giai đoạn này gọi là giai đoạn hiện tướng bởi vì nó trình bày từng bước một cái quá trình xuất hiện của hình ảnh mà mình quán tưởng về Quán Thế Âm Bồ Tát.

Lúc bắt đầu, trước hết, một lần nữa hành giả phải quán tưởng trong hư không đầy dẫy vô lượng chúng sanh. Vô lượng chúng sanh này ngập tràn toàn thể vũ trụ. Hành giả tưởng tượng chúng đang ngồi trong một diện tích rộng lớn và tự khởi lên tịnh tọa và tu tập thiền định cùng lúc với hành giả.

Hành giả quán thấy trên đảnh đầu của mình và của cả chúng sanh đều hiện lên một đóa sen trắng tám cánh. Rễ của hoa sen này sanh trong đầu của những chúng sanh và mọc nhú lên từ nơi thiên đảnh huyệt (gọi là đầu đảnh môn xứ Bà La Môn) của đầu nổi lên (mọc nhú lên). Lủng lẳng bình hành trên đầu cánh hoa là một Nguyệt Luân (vầng trăng) màu trắng tương tự như một tọa cụ dùng để ngồi thiền nhưng rấ bằng phẳng.

Trên những nguyệt luân (vầng trăng) này đột nhiên xuất hiện chủng tử HRÌH (đọc âm đồng vận như chữ free trong anh ngữ. Âm H đại biểu cho lúc âm tiết đã chấm dứt có một khí âm đoản xúc). Âm tiết của chữ này là sở tại tinh túy của Từ Bi và Trí Tuệ của chư Phật. Lúc quán tưởng chữ này, có thể sử dụng bất cứ loại văn tự nào cũng được, ví dụ: chữ Phạn thì: ; Tây Tạng thì: ; hoặc phiên âm theo Anh ngữ thì là HRÌH. Có thể quán tưởng chữ này trong một chiều cao một vài inches (phân Anh), đứng ở trên nguyệt luân, mặt hướng về phía trước, màu nó thật khiết bạch và rất quang minh rực rỡ ba động với ánh sáng, tiếp nhận tinh lực linh hoạt nhở bởi tinh chất Đại Bi mãnh liệt. Ánh sáng đó rung động miên viễ#n và chiếu soi toàn thể vũ trụ.

Sau đó chữ HRÌH này lại tự động chuyển biến thành Hình Tượng hay Pháp Tượng của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Đức Quán Thế Âm có một màu da quang minh rực rỡ và khiết bạch giống như màu sắc của một vầng thu nguyệt. Thánh thể của Ngài phóng chiếu rực rỡ và trải ra năm màu quang huy chói lọi của móng cầu vòng như trắng, xanh da trời, vàng, đỏ và xanh diệp (năm màu này là năm màu đại biểu để cấu thành năm thứ nguyên tố của thế giới). Ánh sáng đó chiếu rọi toàn thể vũ trụ. Gương mặt đức Bồ Tát đang cười hàm tiếu (vi tiếu) và hai mắt đều hiển lộ chan chứa từ bi, đang xót thương xem xét tất cả chúng sanh trong thế gian. Ngài có bốn cánh tay – Hai cánh tay chấp trước ngực trong vị thế kỳ đảo, cầu kinh, khấn nguyện (namaskara). Trạng thái này thể hiện cho lòng chí kính đối với vô lượng chư Phật. Tay phải vòng ngoài, cầm một hoa sen tuyệt mỹ (tượng trưng của Bồ Tát), và tay trái vòng ngoài thì cầm một chuỗi hạt pha lê (mala) tượng trưng cho lòng Đại Bi không ngừng nghỉ.

Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ăn mặc theo truyền thống thêu dệt bằng oanh lạc, tơ lụa và chân báu. Những thứ này bao gồm cả khăn choàng, xiêm y, áo choàng, v.v… Tất cả đều được chế tạo bởi những loại tơ lụa và châu báu hảo hạng tối thượng; ngoài ra, Ngài còn trang sức thêm những loại nữ trang như: Xoan vòng, bông tai, kiềng đeo cổ, nhẫn, đai, xuyến. Ngài còn vận một tấm da nai bên vai trái để tượng trưng cho lòng từ bi của Ngài đối với tất cả chúng sinh. Tóc của Ngài được bệnh thành những nhánh búi tóc nhỏ quấn vòng quanh đầu và tạo thành một cái đỉnh, phần tóc còn lại thì được xỏa xuống tự nhiên. Ngài đội một bảo quan (chiếc mão làm bằng châu báu), phía trước mão, ở trên có gắn một tượng nhỏ mày đỏ của đức Phật A Di Đà. Phật A Di Đà là bậc thượng sư của Quán Thế Âm Bồ Tát và là bậc chí tôn trong chư Phật từ liên hoa phóng sanh mà Quán Âm Bồ Tát thuộc một trong phổ hệ này. Hầu hết trên bảo quang của những tôn tượng Quán Âm, đều có một tượng nhỏ Phật A Di Đà để biểu thị lòng tôn sùng chí kính đối với Phật A Di Đà, một vị Phật vô cùng trọng yếu.

Quán Âm Bồ Tát ngồi trong tư thế Kim Cang tọa (Vajrasana), hai chân giao xếp vào nhau, bàn chân hữu gác trên đùi chân trái và ngược lại bàn chân trái gác trên đùi chân hữu. Ngài ngồi đâu lưng với vầng nguyệt luân màu trắng. Vầng trăng đang ở đằng sau Ngài, sự thanh lương, quang huy, rực rỡ của vầng trăng này tượng trưng cho tâm từ bi dùng để khắc phục sự thống khổ, nhiệt não (nóng bức) của tham ái.

Những lời tối hậu của tiết này là hướng dẫn, chỉ dạy cho hành giả phải nhận định một cách minh bạch rằng đức Quán Âm Bồ Tát đang ở trên đầu của hành giả không chỉ là một huyễn tượng được sanh ra từ sự quán tưởng mà chính là đức Quán Âm đích thật. Hành giả cần phải quán tưởng rằng: Bồ Tát này là tất cả sự tinh anh của trí tuệ của chư Phật (tức đối tượng quy đích thực của hành giả). Hình tượng được quán tưởng như thế thì, tức khắc trở thành Phật Tánh tối cao, đầy đủ những oai lực không gì so sánh nổi và có thể thị hiện sự cảm ứng linh hiện trực tiếp với hành giả.

3 – CẦU NGUYỆN ĐỨC QUÁN ÂM

Những hàng văn kế tiếp sau đây là loại văn cầu đảo có tính truyền thống để xưng tụng đức Quán Âm mà trong đó tổng kết lại tính cách đại phẩm đức trọng yếu của Quán Thế Âm Bồ Tát. Viên Mãn Phật tức chỉ đức Phật A D Đà.

Một mặt, hành giả phải khắc nhớ trong tâm tất cả những quán tưởng đã thực hiện từ trước, mặt khác, phải đọc trong nhiều lần (biến) lời Kệ kỳ đảo (cầu nguyện) này. Kệ văn tụng này biểu đạt cách căn bản lòng tôn kính và sự sùng ngưỡng của một tâm cảnh hết sức cao xa sâu thẳm đối với bậc Bồ Tát; loại tâm cảnh này khác hẳn và nghịch phản với cái tâm hồn loạn dẫy đầy tham dục của tất cả chúng sanh đang trôi lăn trong luân hồi trong sanh tử. Vì thế, hành giả nên khẩn thiết thỉnh cầu Bồ Tát ban cho sự che chở và gia bị.

4 – BIẾN HÓA VÀ TRÌ CHÚ

Đoạn văn ở trước đã tường thuật sự khẩn cầu và nguyện thiết, cả hai đều biểu thị: Hành giả đã chuẩn bị thành thục và đã đạt đến giai đoạn sẵn sàng ban phát, thi thiết, thực hiện tâm Từ Bi. Vì thế, trong tâm Bồ Tát tự nhiên sanh khởi niệm đầu cứu khổ tất cả chúng sanh đang trầm luân trong bể khổ sanh tử. Ánh sáng bắt đầu được phóng ra từ thân thể thế giới. Ánh sáng này có thể quét sạch tất cả những trạng huống (tình trạng, vấn đề) hỗn loạn, sự thống khổ hư huyễn của thế gian được tạo thành bởi vô minh lầm lỗi nơi chúng ta. Hành giả tưởng tượng toàn thể ngoại cảnh (thế giới vật lý) đều được ánh sáng quang minh chiếu soi. Ngay lúc đó tất cả những việc chung quanh hành giả biến thành những phẩm vật vô cùng mỹ lệ và hết sức ý nghĩa. Nói cách khác, tất cả đều trở thành những trang sức phẩm trang nghiêm của cõi Tịnh Độ Cực Lạc (là chỗ ở của Phật A Di Đà và Quán Âm, và những bậc Bồ Tát thiện tri thức) thí như căn phòng mà hành giả đang ngồi đang biến thành cung điện thủy tinh, một cảnh giới thích ứng cho bậc giác giả. Đồng thời, tất cả chúng sanh ở thế gian được chuyển hóa bởi luồng quang minh. Và dạng thức giác ngộ nhất của họ được trở thành một thành tựu viên mãn, cứu cánh.

Thân họ biến thành giống như thân của Quán Âm. Bất cứ những gì họ nói đều biến thành Lục Tự Chơn Ngôn của Quán Âm. Và bất cứ những gì họ đang suy nghĩ cũng đều là sự hoạt dụng tự phát của Bồ Đề Tâm. Hiển nhiên, bản thân của hành giả cũng được chuyển hóa y hệt như vậy.

Một cách dễ hiểu hơn, tất cả những hiện tượng trong vũ trụ đều chuyển biến thành những hình thái mà lẽ ra chỉ có thể có được nơi cảnh giới của một bậc thánh giả. Ánh sáng (hào quang) của Bồ Tát đã tẩy sạch tận gốc vọng tâm của chúng ta và làm cho tất cả những đối lập tánh nhị nguyên của thế gian bị tiêu hủy một cách toàn diện. Tất cả những âm thinh, sắc tướng và tư tưởng đều biến thành vô phân biệt để cùng trở thành bất khả phân với Không Tánh.

Lúc tâm cảnh đã đạt đến một cảnh khiết tịnh như thế, hành giả liền đã có thể bắt đầu tuyên hô Thần Chú. Số biến của Chú trì tụng càng nhiều càng tốt, nhưng tối thiểu cũng cần phải có 100 biến. Trong khi tuyên hô trì tụng Thần Chú, đặc biệt hành giả cần phải giữ gìn toàn thể sự quán tưởng như vừa diễn tả.

Lục Tự Chơn Ngôn Án Ma Ni Bát Di Hồng (OM MANI PADME HÙM) này được coi là chứa đựng sự tập trung của tất cả năng lực thiêng liêng phát từ lòng Đại Bi và sự Đại Diệu Dụng của Quán Âm Bồ Tát. Nói theo nghĩa đen thì chữ ÁN bao gồm 5 loại hình tượng và trí tuệ của Phật; MA NI có nghĩa là Bảo Châu; BÁT DI có nghĩa là Liên Hoa; hợp hai ý nghĩa này với nhau có nghĩa là Ngài là bậc Thủ Trì Liên Hoa và Bảo Châu, và đây cũng đích thị là biệt hiệu khác của Quán Âm. HỒNG: có công năng bảo hộ lục đạo chúng sanh. Như vậy, theo truyền thống, ý nghĩa của Lục Tự Chơn Ngôn này là: “Hỡi bậc Đạo Sư của Ngũ Phật Thân và Ngũ Trí Như Lai, bậc Thủ Trì Liên Hoa và Bảo Châu, xin Ngài hoan hỷ gia hộ cho lục đạo chúng sanh vượt qua các thống khổ.”

(Xin chú ý, thường thì chơn ngôn này được dịch là: vạn tuế Bảo Châu trong Liên Hoa: đây là một chuyển dịch sai lầm)

Cũng có người cho rằng Lục Tự Chân Ngôn tương đương với lục thú và tương ứng với lục sắc, lục dục, lục trí, lục Phật. Có nhiều sự giải thích khác nhau về Chú này nhưng không cần thiết để phải nghĩ đến tất cả ý nghĩa ấy trong lúc trì tụng. Sức mạnh đơn thuần cố hữu của chỉ nội âm thanh của Lục Tự này sẽ tự nhiên truyền đạt Trí Huệ và Từ Bi của Quán Thế Âm Bồ Tát cho hành giả, và từ đó, qua hành giả, nó truyền đạt đến tất cả chúng sanh.

(Chú thích: OM đọc giống như chữ OM trong chữ Việt, MANI đọc như MANI; còn chữ PADME có thể đọc là PADME hay đọc theo Tây Tạng là PÊ MÊ, còn chữ HUM thì đọc lơ lớ giữa HUM và HUNG trong chữ Việt)

5 – GIAI ĐOẠN HOÀN THÀNH

Sau khi đã hoàn tất giai đoạn tuyên trì thần Chú, thì toàn bộ quán tưởng đều đã tan biến để hòa nhập vào Không Tánh. Như thế, hành giả đã được chỉ dạy cách thể hiện Chân Tánh khế hợp theo nguyên lý cao lớn nhất của Phật Đạo. Chính phần Thiền Quán này, kết quả của việc quán tưởng từ đầu đến đây, thực ra đã không khác gì với những sự tham thiền khác như sự tham thiền trong Thiền Tông hoặc Minh Kiến (Vipashyana).

Có thể giải thích rằng: Vì mình hiện đang có được Trí Huệ Giác Ngộ của Quán Thế Âm Bồ Tát, nên mình tế nhận được Không Tính của tất cả mọi sự trong vũ trụ, kể cả Không Tính của việc quán tưởng. Tâm thức, do đó, trở thành hoạt dụng tự nhiên trở lại với tự tính, tức linh túy của chính sự Giác Ngộ. Tất cả mọi kiến trúc nhị nguyên của Tâm Thức đã được siêu vượt qua hẳn. Bất kỳ là thọ giả, tác giả hay sở tác nghiệp sẽ đều bị đánh mất ý nghĩa. Không có một sự vật gì để nắm bắt đeo níu (chấp thủ), và ngay cả cảnh địa của sự khoái lạc cũng chẳng có gì để có thể tham trước đeo níu. Ngược lại, hành giả thoát giải buông bỏ theo tự tánh, và tự tánh đây là chân tánh nguyên uyên. Hành giả nên trụ lại trong cảnh giới tự giải thoát này càng lâu càng tốt bởi, nó vốn là phần tối trọng yếu trong pháp tu.

6 – TU XONG ĐỨNG DẬY (XUẤT ĐỊNH)

Lúc xuất định (ra khỏi cảnh Định) thì mình trực nhận rằng tất cả mọi sự đều thuộc về đạo trường mạn đà la của Quán Thế Âm Bồ Tát. Mình nhận thấy rằng tất cả chúng sanh và tất cả hình tướng đều là tự thân của chính Quán Âm. Tất cả âm thanh đều được lãnh hội như là Lục Tự Chơn Ngôn. Tất cả tư tưởng đều được tri nhận như là thành phần thuộc về Từ Bi và Trí Huệ của Quán Thế Âm. Xuất phát từ sự cảm ứng được sanh ra bởi kết quả tu chứng của sự quán tưởng, hành giả nhìn thấy thực tế một cách cao quý sâu thẳm và mới lạ. Ông ta nhìn tất cả sự vật bằng một cái nhìn thuần tịnh, sáng suốt và như thật.

Như thế, bằng mọi cách có thể, càng nhiều càng tốt, hành giả nên đem cảnh giới giác ngộ đã đạt được trong lúc quán tưởng hòa nhập vào sự sinh hoạt hằng ngày. Điều này có nghĩa là hành giả cần phải tránh xa (phủ nhận) tư tưởng nhị nguyên và lòng tham trước níu những đối tượng vật chất. Ngược lại, hành giả cần bồi dưỡng tâm Từ Bi đối với tất cả chúng sanh. Phải xem họ như bạn lành để ra tay giúp đỡ, tế độ. Đồng lúc, luôn luôn ghi nhớ rằng: tất cả mọi hiện tượng đều chỉ là hư huyễn.

 7 – HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

 Bất cứ pháp môn nào trong Phật giáo, theo truyền thống, khi hoàn tất việc tu tập, nhất định phải bày tỏ lời hồi hướng này để biểu thị một điều rằng: tất cả những công đức nào mình gặt hái được trong lúc tu tập đều cần được mang ra cống hiến, chia sẻ cho tất cả chúng sanh. Hệt như khi bắt đầu tu tập, hành giả đã phải xác định một cách khẳng quyết rằng: hành giả tu tập Phật pháp không phải vì mục địch nhằm tư lợi bản thân mà chính là vì sự lợi lạc của tất cả chúng sanh. Hành giả thệ quyết sẽ nhất định thành Bồ Tát như Bồ Tát Quán Âm để cứu độ tất cả chúng sanh và làm cho mỗi một chúng sanh đều đạt được tâm thức giác ngộ.

Sau hết, cũng nên có những lời thích đáng về sự tu tập lòng Từ Bi trong đời sống hằng ngày: Phần đông, những hành nhơn sớm muộn gì cũng phát giác và liễu ngộ được rằng: những phương pháp tối ư thông minh và vô cùng hữu hiệu để độ người đã không phải là những phương pháp dễ dàng. Mục đích của Bồ Tát Hạnh là vĩnh viễn giúp đỡ tất cả chúng sanh đều chứng thành chánh giác. Nhưng nếu có thể tri nhận phương pháp tốt nhất để đạt đến mục đích tối cao thì nó đòi hỏi rất nhiều trí tuệ và phương tiện, và rất có nhiều lỗi lầm có thể dễ dàng vấp phải đối với những kẻ sơ học. Ví dụ: Đương nhiên, tuyệt đối không ai trong chúng ta lại muốn hợp lực với kẻ cướp để phạm tội. Một cách tổng quát: Tuyệt đối không thể vì Từ Bi mà cổ súy, khích lệ người khác nỗ lực làm cái công việc lợi kỷ (lợi mình) hoặc giúp đỡ họ tăng trưởng bản ngã và khiến họ kẹt vướng hơn nữa vào những sự biến động xung đột của tình cảm rối rắm.

Vì thế, người sơ học nên đặc biệt chú trọng đến thái độ nội tâm mà định thời tu tập. Và, đây là một điều hết sức trọng yếu: Hành giả không nên có quá nhiều tham vọng, hoài bảo lớn và cũng không thể lãng mạn tự cho mình là một Cứu Thế Đại Giáo Chủ, làm Vô Thượng Sư cho tất cả mọi người. Dù ý nguyện trong nội tâm của hành giả thực ra là phát triển tự thân để thành đạt lý tưởng sâu thẳm cao cả này, nhưng trong thời gian đầu, thượng sách là chỉ nên thay đổi chút đỉnh cung cách lề lối xử sự bên ngoài. Một cách đơn giản, hành giả chỉ cần trở thành một người có lòng ưu ái thân thiết hơn, thông thường hơn và đừng quên lòng nhân từ của mình đối với cả loài thú vật. Nên tránh hẳn sự giết hại (sát sinh) dù đó là một côn trùng nhỏ, hay một con gián. Như thế, dần dần hành giả có thể trở thành một người có thể làm chủ và chế ngự được những cảm xúc tình tự và những vấn đề (phức tạp khó khăn) của chính mình. Ngã chấp dần dần sẽ giảm khinh và, đối với những nhu yếu, tình huống của người khác cũng sẽ được mình tri nhận, thông cảm cách rõ ràng sáng suốt hơn.

OmMani Padme Hum

OmMani Padme Hum là một câu thần chú tiếng Phạn, được xem là thần chú cầu Quán Thế Âm Bồ Tát ( Avalokiteshvara) và là thần chú quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng. Nó còn được mệnh danh là “ Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn” tức là “

Chân ngôn sáng rõ bao gồm sáu chữ”.

Om: Quy mệnh Mani: Viên ngọc như ý Padme: Bên trong hoa sen Hum: Tự ngã thành tựu

Theo âm Hán-Việt, câu này được đọc là Úm ma ni bát ni hồng hoặc Án ma ni bát mê hồng.

Thông thường người ta không giảng nghĩa thần chú, nhưng ở đây cần nói thêm là: “ Ngọc quý” biểu hiện cho Bồ-đề tâm (bodhicitta). “ Hoa sen” chỉ tâm thức con người, ý nghĩa là tâm Bồ-đề nở trong lòng người. Tuy nhiên thần chú có những âm thanh riêng biệt và những tác dụng bí ẩn theo cách trình bày của Kim cương thừa. Đối với Phật giáo Tây tạng thì Om Mani Padme Hum chính là lòng từ bi rộng lớn, muốn đạt Niết-bàn vì lợi ích của chúng sinh. Vì vậy sáu âm tiết của thần chú này cũng được xem là tương ưng với sáu cõi tái sinh của dục giới.

Các thần chú là biểu hiện của âm thanh bắt nguồn từ sự rỗng không. Nó là âm thanh xác thực của khoảng trống không.

Bắt nguồn từ khái niệm về chân lý tuyệt đối và trạng thái rỗng không, câu chú không hiện hữu. Không có âm thanh hay câu chú. Âm thanh và câu chú, như tất cả những dạng biểu thị khác nhau, đều ở vị trí của cõi tương đối xuất hiện từ rỗng không. Trong cõi tương đối, mặc dù âm thanh chính nó không có thực thể, nó vẫn có năng lực để chỉ định, đặt tên, và có sự hoạt động ở tâm thức.

Trong phạm vi tương đối nơi hành động, thần chú được phú cho một năng lực không thể sai lạc.

Các câu chú thường là tên các vị Phật, Bố Tát, hoặc thần thánh. Ví dụ, OM MANI PADME HUNG ( ÁN MA – NI BÁT DI HỒNG) là cách gọi Ngài Quán Âm ( Chenrezig). Từ quan điểm tuyệt đối, Chenrezig không có tên, nhưng trong phạm vi ý nghĩa tương đối hoặc nghĩa đen, Ngài có tên gọi riêng. Những tên nầy là trung gian của lòng từ bi, vẻ thanh nhã, và sức mạnh cùng các nguyện ước của Ngài làm lợi ích cho chúng sinh. Bằng cách niệm danh hiệu của ngài để những phẩm chất tâm thức nầy được truyền đến ta. Ở đây, việc giải nghĩa về năng lực lợi ích của thần chú, danh hiệu của Ngài; như chúng ta đồng hóa chúng ta với tên họ và những gì liên hệ đến nó, cũng bằng cách nầy, trên bình diện tương đối, thần chú đồng nhất với vị thần. Cả hai trở thành một thực tại duy nhất. Khi một người niệm chú, người ấy nhận được vẻ thanh nhã của vị thần; bằng cách hình dung vị thần, vị thánh ấy, người niệm chú nhận được vẻ thanh nhã không khác biệt của các vị thánh.

Thần chú OM MANI PADME HUNG đôi lúc được giải thích với những ý nghĩa cầu kỳ và thần bí. Tuy nhiên, như chúng ta đã nói, đây đơn giản chỉ là tên của Bố Tát Quan Âm được đặt giữa hai âm thanh truyền thống và thiêng liêng, OMvà HUNG.

-OM: tượng trưng cho thân các vị Phật, các thần chú đều bắt đầu từ âm nầy.

– MANI: nghĩa là châu báu

– PADME: phát âm theo Sankrit, hoặc PEME trong tiếng Tây Tạng, có nghĩa hoa sen

– HUNG: tượng trưng cho tâm thức tất cả các vị Phật và thường là câu cuối trong các thần chú.

– MANI: nói về châu báu mà Bố Tát Quan Âm cầm trong hai tay giữa và PADME là hoa sen cầm ở tay trái thứ nhì. Khi gọi MANI PADME là gọi tên Ngài Bồ Tát Quán Âm xuyên qua những phẩm hạnh của Ngài.

Khi chúng ta niệm chú, thật ra chúng ta đang tiếp tục lặp lại tên Ngài Bồ Tát Quán Âm. Mặt khác, khi niệm câu chú OM MANI PADME HUNG thì có ý nghĩa hơn, vì câu chú nầy là sự thanh nhã và năng lực tâm thức của ngài Quan âm đã gom sự thanh nhã và từ bi của tất cả các vị Phật và Bồ Tát. Trong cách nhìn nầy, câu chú được phú cho khả năng vén màn tâm tối, và thanh tịnh hóa tâm thức chúng ta. Thần chú mở mang tâm thức thương yêu và từ bi, đưa đến sự tỉnh thức giác ngộ.

Các vị Bồ Tát và thần chú là một nguyên thể, nghĩa là một người có thể niệm chú mà không cần thiết phải hình dung, tưởng tượng. Niệm chú vẫn có hiệu quả.

Phẩm chất xác thực của mỗi âm trong sáu âm của câu chú được giải thích rất phù hợp.

Trước tiên, hãy để chúng ta xem mỗi âm giúp chúng ta đóng cánh cửa tái sanh đau khổ, một trong sáu cõi hiện hữu của vòng luân hồi:

– OM đóng cánh cửa luân hồi trong cõi trời ;

– MA, cánh cửa cõi thần, A-tu-la

– NI, cánh cửa cõi người

– PAD, cánh cửa cõi súc sanh

– ME, cánh cửa cõi ngạ quỷ ;

– HUNG, cánh cửa cõi địa ngục.

Mỗi âm tiết được xem như có ảnh hưởng thanh tịnh hóa :

– OM thanh tịnh hóa bản thân ;

– MA thanh tịnh hóa lời nói ;

– NI thanh tịnh hóa tâm thức ;

– PAD thanh tịnh hóa những cảm xúc mâu thuẫn ;

– ME thanh tịnh hóa điều kiện ẩn tàng ;

– HUNG thanh tịnh hóa tấm màn che phủ trí tuệ.

Mỗi âm tiết là một bài cầu nguyện :

– OM lời cầu nguyện hướng về thân thể của các vị Phật ;

– MA lời cầu nguyện hướng về lời nói của các vị Phật ;

– NI lời cầu nguyện hướng về tâm thức các vị Phật ;

– PAD lời cầu nguyện hướng về những phẩm chất của các vị Phật ;

– ME lời cầu nguyện hướng về hoạt động của các vị Phật ;

– HUNG gom góp sự thanh nhã của thân, khẩu, ý, phẩm chất, và hoạt động của các vị Phật.

Sáu âm tiết liên hệ đến sáu ba-la-mật, sáu sự hoàn hảo được chuyển hóa :

– OM liên hệ đến sự rộng lượng ;

– MA, đạo đức ;

– NI, kiên trì, nhẫn nhịn,

– PAD, chuyên cần,

– ME, chú tâm,

– HUNG, trí tuệ.

Sáu âm tiết cũng liên quan đến sáu vị Phật, ngự trị trên sáu Phật gia:

– OM liên hệ đến Ratnasambhava ( Bảo – Sanh Phật)

– MA, Amaghasiddi ( Bất – Không – Thành – Tựu Phật)

– NI, Vajradhara ( Kim Cương Trì/ Phổ – Hiền Bồ Tát)

– PAD, Vairocana ( Lô – Xá – Na Phật)

– ME, Amitabha ( A – Di – Đà Phật)

– HUNG, Akshobya ( A – Súc – Bệ Phật)

Cuối cùng, sáu âm tiết liên hệ đến sáu trí tuệ:

– OM = Trí tuệ thanh thản, an bình

– MA = trí tuệ hoạt động

– NI = trí tuệ tự tái sanh

– PAD = trí tuệ pháp giới

– ME = trí tuệ phân biệt

– HUNG = trí tuệ như gương.

Ở Tây Tạng, mọi người thường tụng niệm thần chú của Ngài Quan Âm. Sự đơn giản và phổ thông của thần chú không làm giảm đi sự to tát của thần chú, và còn có giá trị to lớn hơn. Điều nầy được thể hiện trong câu nói khôi hài sau :

Ở đoạn khởi đầu, không có đau khổ vì không biết,

Ở đoạn giữa, không có lòng tự kiêu vì hiểu biết,

Ở đoạn cuối, không sợ quên câu chú.

Không có sự hiểu biết về lý luận, y học, chiêm tinh học, và những môn khoa học khác là sự đau khổ, bởi vì một người có thể bỏ nhiều năng lực, cố gắng và chấp nhận nhiều mệt mỏi để học hỏi nó. Tuy nhiên, trong vài giây ngắn ngủi đã đủ để học thuộc thần chú của Ngài Quan Âm. Không cần đối diện với đau khổ từ si mê cho đến hiểu biết. Bởi vì vậy, ” Ở đoạn đầu không có đau khổ vì không biết”

Một người sau mấy năm học hỏi môn khoa học khó khăn sẽ nhận được danh vọng hoặc chức vị ở xã hội, và họ hoàn toàn hài lòng với bản thân và tin rằng họ giỏi hơn tất cả những người khác. Thần chú đơn giản của ngài Quan Âm giúp cho một người tránh rơi vào tình trạng nói trên. Như vậy, ” Ở đoạn giữa, không kiêu ngạo khi hiểu biết”.

Cuối cùng, nếu chúng ta không gìn giữ câu chú, sự hiểu biết mà chúng ta thâu thập được trong y học, chiêm tinh học, hoặc những môn khoa học khác có thể dần dà bị mai một. Nhưng không thể nào quên được sáu âm tiết câu chú.

OMMANI PADME HUNG.

Vậy, ” Ở đoạn cuối, không sợ quên câu chú”

Cũng vậy, từ những bài ghi chú của tôi: ” Cơn mưa liên tục làm lợi ích cho Chúng Sinh”

– OM là màu TRẮNG ;

– MA, màu XANH LÁ CÂY ;

– NI , màu VÀNG ;

– PAD, màu XANH DA TRỜI ;

– ME, màu ĐỎ ;

– HUNG, màu ĐEN.

Câu chú có thể được tóm tắt như sau: ” Tôi cầu xin hiện thân của năm dạng và năm ý thức chuyển hóa, Vị bồ tát sỡ hữu viên ngọc và hoa sen để bảo hộ tôi thoát khỏi những nỗi đau khổ của chúng sinh trong sáu cõi”.

OM MANI PADME HUNG là bản tóm tắt của bộ sưu tập kiến thức trực tiếp của tất cả các vị Phật. Những chỉ dẫn bao gồm trong mỗi âm của sáu âm tiết, là bản chất Tinh Thông Bí mật về các vị Phật, là nguồn gốc của tất cả mọi phẩm chất và hạnh phúc sâu sắc, gốc rễ của các thành tựu lợi ích, sung sướng, và là con đường vĩ đại đưa đến những hiện hữu và tự do cao cả.

Tạng ngữ đọc là Om Mani Pémé Hung. Thần chú này tiêu biểu tâm đại bi và ân sủng của tất cả chư Phật, Bồ-tát, nhất là ân sủng của Quán Tự Tại, vị Phật của lòng bi mẫn. Quán Tự Tại (hay Quán Thế Âm) là hiện thân của Phật trong hình thức Báo thân, và thần chú của ngài được xem là tinh túy của lòng bi mẫn của chư Phật đối với hữu tình. Nếu Ngài Liên Hoa Sinh là bậc thầy quan trọng nhất của người Tây Tạng, thì Quán Tự Tại là vị Phật quan trọng nhất của họ, là vị thần hộ mệnh của dân tộc này. Có câu nói nổi tiếng là vị Phật của lòng bi mẫn đã ăn sâu vào tiềm thức Tây Tạng tới nỗi một hài nhi vừa biết nói tiếng “Mẹ” là đã biết đọc thần chú này, OM MANI PADME HUM.

Tương truyền vô lượng kiếp về trước có một ngàn Thái Tử phát tâm Bồ-đề nguyện thành Phật. Một vị nguyện thành Phật Thích Ca mà ta đã biết; nhưng Quán Tự Tại thì nguyện sẽ không đạt thành Chính giác khi mà tất cả ngàn Thái Tử chưa thành. Với tâm đại bi vô biên, ngài còn nguyện giải thoát tất cả chúng sinh ra khỏi khổ sinh tử luân hồi trong lục đạo. Trước mười phương chư Phật, Ngài phát nguyện: “Nguyện cho con cứu giúp được tất cả hữu tình, và nếu có khi nào con mệt mỏi trong công việc lớn lao này thì nguyện cho thân con tan thành một ngàn mảnh”.

Đầu tiên, Ngài xuống cõi địa ngục, tiến lên dần đến cõi ngạ quỷ, cho đến các cõi trời. Từ đấy Ngài tình cờ nhìn xuống và trông thấy than ôi, mặc dù Ngài đã cứu vô số chúng sinh thoát khỏi địa ngục, vẫn còn có vô số khác đang sa vào. Điều này làm cho Ngài đau buồn vô tận, trong một lúc Ngài gần mất tất cả niềm tin vào lời nguyện vĩ đại mà Ngài đã phát, và thân thể Ngài liền nổ tung thành ngàn mảnh. Trong cơn tuyệt vọng, Ngài kêu cứu tất cả chư Phật. Những vị này từ mười phương thế giới đều bay đến như mưa tuyết để tiếp cứu. Với thần lực nhiệm mầu, chư Phật làm cho Ngài hiện toàn thân trở lại, và từ đấy Quán Tự Tại có mười một cái đầu, một ngàn cánh tay, trên mỗi lòng tay có một con mắt. Ý nghĩa rằng sự phối hợp giữa trí tuệ và phương tiện thiện xảo là dấu hiệu của đại bi chân thực. Trong hình thức này, Ngài còn sáng chói rực rỡ, và có nhiều năng lực hơn trước để cứu giúp tất cả chúng sinh. Tâm đại bi của Ngài khi ấy còn mãnh liệt hơn nữa, và Ngài lại phát lời nguyện này trước chư Phật: “Con nguyện không thành Chính giác khi tất cả chúng sinh chưa thành”.

Tương truyền rằng vì đau buồn trước nỗi khổ luân hồi sinh tử, hai giọt nước nướt mắt đã rơi từ đôi mắt Ngài, và chư Phật đã làm phép biến hai giọt nước mắt ấy thành hai nữ thần Tara. Một nữ thần có màu xanh lục, năng lực hoạt động của tâm đại bi, và một nữ thần có màu trắng, khía cạnh như mẹ hiền của tâm đại bi. Tara có nghĩa là người giải cứu, người chuyên chở chúng ta vượt qua biển sinh tử.

Theo kinh điển đại thừa, chính Quán Tự Tại đã cho đức Phật câu thần chú, và đức Phật trở lại giao phó cho Ngài công tác cao quý đặc biệt là cứu giúp tất cả chúng sinh tiến đến giác ngộ. Vào lúc ấy, chư Thiên tung hoa xuống ca ngợi hai Ngài, quả đất chấn động, và không trung vang lên âm thanh OM MANI PADME HUM HRIH.

Có câu thơ về Ngài ý nghĩa như sau:

“Quán Thế Âm như vầng trăng, với ánh sáng mát dịu, dập tắt những thiêu đốt của sinh tử. Trong ánh sáng ấy, đóa sen từ bi – loại hoa nở về đêm – mở ra những cánh trắng tinh khôi” .

Giáo lý giải thích rằng mỗi âm trong sáu âm của thần chú OM MANI PADME HUM có một hiệu quả đặc biệt để mang lại sự chuyển hóa thuộc nhiều tầng lớp khác nhau của bản thể ta. Sáu âm này tịnh hóa tất cả sáu phiền não gốc, biểu hiện của vô minh khiến chúng ta làm những ác nghiệp của thân, lời, ý, tạo ra luân hồi sinh tử và những khổ đau của chúng ta, trong đó kiêu mạn, ganh tị, dục vọng, ngu si, thèm khát và giận dữ, nhờ thần chú mà được chuyển hóa trở về bản chất thực của chúng, trí giác của sáu bộ tộc Phật thể hiện trong tâm giác ngộ.

Chú thích: Giáo lý thường nói đến năm bộ tộc Phật, bộ tộc thứ sáu là tổng hợp của năm bộ tộc trên

Bởi thế, khi ta tụng thần chú OM MANI PADME HUM thì sáu phiền não nói trên được tịnh hóa, nhờ vậy ngăn ngừa được sự tái sinh vào sáu cõi, xua tan nỗi khổ ẩn tàng trong mỗi cõi. Đồng thời thần chú này cũng tịnh hóa các uẩn thuộc ngã chấp, hoàn thành sáu hạnh siêu việt của tâm giác ngộ ( sáu ba la mật): bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Người ta cũng nói rằng thần chú OMMANI PADME HUM có năng lực hộ trì rất lớn, che chở ta khỏi những ảnh hưởng xấu và các thứ tật bệnh.

Thường có chủng tự HRIH của Quán Thế Âm được thêm vào sau câu thần chú, làm thành OM MANI PADME HUM HRIH. HRIH là tinh yếu tâm đại bi của tất cả chư Phật, là chất xúc tác đã khởi động tâm đại bi chư Phật để chuyển hóa các phiền não của ta thành bản chất trí tuệ của các Ngài.

Kalu Rinpoche viết:

Một cách khác để giải thích thần chú này là:

OM là tính chất của thân giác ngộ,

MANI PADME tiêu biểu ngữ giác ngộ,

HUM tiêu biểu ý giác ngộ.

Thân, ngữ, ý của tất cả chư Phật được tàng ẩn trong âm thanh của thần chú này. Thần chú này tịnh hóa những chướng ngại của thân, lời, ý, và đưa tất cả hữu tình đến trạng thái chứng ngộ. Khi tụng thần chú này, mà phối hợp với đức tin và tinh tiến thiền định thì năng lực chuyển hóa của thần chú sẽ phát sinh và tăng trưởng. Quả vậy, chúng ta có thể tịnh hóa bản thân bằng phương pháp ấy.

Đối với những người đã quen thuộc với thần chú này, suốt đời tụng đọc với nhiệt thành và niềm tin, thì Tử Thư Tây Tạng nói, ở trong cõi Trung Ấm: “Khi âm thanh của pháp tính gầm thét như ngàn muôn sấm sét, nguyện cho tất cả tiếng này trở thành âm thanh của thần chú sáu âm”. Tương tự, kinh Lăng Nghiêm cũng nói:

“Mầu nhiệm thay là âm thanh siêu việt của Quán Thế Âm. Đấy là âm thanh tối sơ của vũ trụ… Đó là tiếng thì thầm âm ỉ của thủy triều trầm lắng. Tiếng mầu nhiệm ấy đem lại giải thoát bình an cho tất cả hữu tình đang kêu cứu trong cơn đau khổ, và đem lại một sự an trú thanh tịnh cho tất cả những ai đang tìm sự thanh tịnh vô biên của niết bàn”.

Những lợi ích của việc trì tụng thần chú của Đức Phật Bi Mẫn thì thật vô biên, giống như bầu trời bao la vô hạn.

Cho dù bạn không hiểu biết nhiều về Pháp, cho dù điều duy nhất bạn biết là Om Mani Padme Hum thì cuộc đời hạnh phúc nhất vẫn là cuộc đời được sống với một thái độ giải thoát khỏi tám mối bận tâm thế tục. Nếu bạn sống cuộc đời mình với thái độ trong sạch thoát khỏi sự tham luyến với cuộc đời này và chỉ đơn thuần trải đời mình trong việc trì tụng Om Mani Padme Hum – thần chú sáu – âm này là tinh tuý của toàn bộ Giáo Pháp – thì đó là Pháp thanh tịnh nhất. Việc trì tụng có vẻ rất đơn giản, rất dễ dàng. Nhưng nếu bạn nghĩ tưởng về những lợi lạc của nó, thì điều đó không hoàn toàn đơn giản. Ở đây tôi sẽ chỉ đề cập tới cốt lõi của những lợi lạc vô biên của nó.

Trì tụng thần chú của Đức Phật Bi Mẫn chỉ một lần sẽ hoàn toàn tịnh hoá sự gãy bể bốn giới nguyện gốc của Biệt Giải thoát và năm nghiệp tiêu cực không bị đứt đoạn.

Trong các tantra cũng đề cập rằng nhờ trì tụng thần chú này bạn sẽ thành tựu bốn phẩm tính để được sinh vào cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà và những cõi Tịnh độ khác; vào lúc chết được thấy Đức Phật và ánh sáng xuất hiện trên bầu trời; chư Thiên cúng dường bạn; và không bao giờ bị tái sinh trong các cõi địa ngục, ngạ quỷ hay súc sinh. Bạn sẽ được tái sinh trong cõi Tịnh độ của Đức Phật hay như một hiện thể tái sanh tốt lành.

Khi một người trì tụng mười chuỗi thần chú một ngày bơi lội, dù trong sông, biển hay một vài sinh loài sống trong nước nào khác, nước chạm vào thân người đó cũng sẽ được ban phước.

Ta cũng được biết rằng bảy đời tổ tiên (cửu huyền thất tổ) của người đó cũng không bị tái sinh trong các cõi thấp. Đó là nhờ năng lực của thần chú, thân được ban phước bởi những người trì tụng thần chú và quán tưởng thân họ trong sắc tướng của thân linh thánh như Đức Quán Thế Âm. Vì thế, thân thể trở nên rất mạnh mẽ, tràn đầy ân phước đến nỗi nó tác động tới tâm thức cho tới bảy đời và kết quả là nếu người ấy chết với một niệm tưởng bất thiện, người ấy sẽ không bị tái sinh trong một cõi thấp.

Vì thế, khi một người mà mỗi ngày từng trì tụng mười chuỗi Om Mani Padme Hum đi xuống sông hay biển, nước chạm vào thân người ấy được ban phước, và sau đó chất nước được ban phước đó sẽ tịnh hoá hàng tỉ tỉ chúng sinh trong nước. Người này cứu giúp những sinh vật trong nước đó thoát khỏi nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi nơi các cõi thấp. Việc ấy thật lợi lạc đến mức khó tin.

Khi một người như thế đi xuống một con đường, gió chạm vào thân người ấy và sau đó tiếp tục chạm vào những côn trùng, nghiệp tiêu cực của chúng được tịnh hoá và nhờ đó chúng có một tái sinh tốt đẹp. Tương tự như vậy, khi một người như thế xúc chạm vào thân người khác, nghiệp tiêu cực của những người đó cũng được tịnh hoá.

Việc một người như thế nhìn ngắm thì thật đầy ý nghĩa; việc được nhìn và xúc chạm trở thành một phương tiện để giải thoát chúng sinh. Điều này có nghĩa là thậm chí hơi thở của người đó chạm vào thân của chúng sinh khác cũng tịnh hoá nghiệp tiêu cực của họ. Bất kỳ sinh loài nào uống nước trong đó một người như thế từng bơi lội cũng được tịnh hoá.

Chúng ta có may mắn lạ lùng là đã gặp được Pháp và có cơ hội để trì tụng và thiền định về Đức Phật Bi Mẫn. Đó là một phương pháp dễ dàng để tịnh hoá bất kỳ nghiệp tiêu cực nào mà ta từng tích tập, không chỉ trong đời này mà còn trong nhiều đời trước nữa.
Bởi chúng ta từng gặp được Phật Pháp và đặc biệt là phương pháp này – sự thực hành Đức Phật Bi Mẫn và trì tụng thần chú của Ngài – nó thật dễ dàng để tịnh hoá nghiệp tiêu cực và tích tập công đức rộng lớn và do đó thành tựu sự Giác ngộ. Chúng ta thật may mắn không ngờ.

Như thế, chẳng còn gì ngu dại hơn việc không chịu sử dụng sự thuận lợi của cơ hội vĩ đại này. Nói chung, chúng ta liên tục xao lãng và phí phạm cuộc đời mình. Không chỉ có thế, mọi hành vi được làm với bản ngã và tâm thức nhiễm ô ba độc tham, sân và si tạo nên nghiệp tiêu cực, là nguyên nhân của đau khổ. Trong cả cuộc đời, không còn gì ngu xuẩn hơn việc sử dụng thân người toàn hảo này chỉ để tạo nên đau khổ.

Ở những nơi như Tây Tạng, Nepal, Ấn Độ, và Ladakh đã có một truyền thống tốt đẹp lâu đời là thực hiện khoá nhập thất Đức Phật Bi Mẫn và trì tụng 100 triệu thần chú Om Mani Padme Hum. Khoá nhập thất được tổ chức ở Viện Chenrezig là kỳ nhập thất như thế lần đầu tiên được tiến hành ở Tây phương và khoá nhập thất đầu tiên trong tổ chức FPMT (Hội Bảo vệ Truyền thống Đại thừa). Việc này xảy ra ở đó mỗi năm một lần – mỗi năm chỉ một lần!

Nếu bạn bị dày vò bởi tội lỗi trong đời mình, bạn có thể khắc phục cảm xúc đó bằng sự tịnh hoá khi tham dự khoá nhập thất này. Khoá nhập thất không chỉ trì tụng các thần chú với các sadhana, mà cũng bao gồm cả việc trì giữ Tám Giới luật Đại Thừa, nếu không mỗi ngày thì ít nhất cũng thường xuyên. Bất kỳ công đức nào mà bạn tích tập trong ngày đó sẽ tăng trưởng gấp 100.000 lần. Việc này trở nên một phương pháp dễ dàng và nhanh chóng để tịnh hoá, tích tập công đức bao la, thành tựu sự Giác ngộ và giải thoát chúng sinh khỏi nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi và mau chóng đưa họ tới sự Giác ngộ.

Được tham dự một kỳ nhập thất mani ( Thần chú Sáu-Âm) là một điều may mắn khó tin. Cho dù bạn không thể hiện diện trong toàn bộ khoá nhập thất, bạn cũng có thể tham dự hai tháng, một tháng hay ít nhất một vài tuần. Thậm chí bạn có thể chỉ nhập thất một tuần. Tôi đặc biệt hy vọng rằng khoá nhập thất này sẽ được tổ chức tại Mông Cổ, bởi thực phẩm chính của họ là thịt và quá nhiều thú vật bị giết mỗi ngày ở đó. Thực hành này trợ giúp để tịnh hoá điều đó. Sau khi các ngôi chùa của chúng tôi ở Mông Cổ được xây dựng xong, tôi hy vọng rằng hàng ngàn người sẽ tham dự các kỳ nhập thất mani tại đó. Dần dần, tôi mong muốn khoá nhập thất này cũng được tổ chức ở nhiều nơi khác tại phương Tây.

Khoá nhập thất này cũng ban phước cho quốc gia ở đó nó được tổ chức và đem lại rất nhiều sự an lạc, hạnh phúc và thịnh vượng.

Cho dù bạn hiểu biết giáo lý về cách thiền định về Bồ Đề Tâm, bạn vẫn cần thọ nhận những ân phước đặc biệt của vị Bổn Tôn, Đức Phật Bi mẫn. Bạn nhận những ban phước này bằng cách thực hiện việc thiền định và trì tụng mà chúng tôi thực hành trong khoá nhập thất mani. Như thế, việc trì tụng Om Mani Padme Hum là một phương pháp thể nhập Bồ Đề Tâm – để chuyển hoá tâm bạn thành Bồ Đề Tâm và làm cho việc bạn thiền định về Bồ Đề Tâm được hiệu quả.

Nói chung, theo kinh nghiệm của tôi, ở trụ xứ của tôi tại Solu Khumbu trong rặng Hymalayas tại Nepal, có những người sống cuộc đời họ trong việc trì tụng Om Mani Padme Hum nhưng không có chút ý niệm nào về tánh Không – ngay cả trên chữ nghĩa. Mặc dù họ không thể đọc và thậm chí không biết vần abc, họ có một lòng sùng mộ vĩ đại đối với lòng bi mẫn và Bồ Đề Tâm và sống cuộc đời họ trong việc trì tụng Om Mani Padme Hum. Những người như thế có một trái tim nồng nhiệt, hết sức thiện tâm, vô cùng bi mẫn. Đây là một bằng chúng từ kinh nghiệm của tôi rằng nó hữu hiệu trong việc chuyển hoá tâm thức thành một trái tim tốt lành và bi mẫn.

Không có Bồ Đề Tâm, bạn không thể đem lại hạnh phúc cho tất cả chúng sinh. Bạn không thể thực hiện những công việc toàn hảo cho tất cả chúng sinh; và bạn không thể thành tựu những phẩm tính toàn thiện về những sự chứng ngộ và ngừng dứt, thậm chí cho chính bạn.

Như thế, mọi người sẽ rất được hoan nghênh khi tham dự khoá nhập thất 100 triệu thần chú Om Mani Padme Hum.

Đây là những nghiệp nặng tới nỗi chúng lập tức chín mùi thành một tái sinh trong cõi địa ngục khi nghiệp đời này cạn kiệt.

Năm nghiệp là: giết mẹ, giết cha, làm thân Phật chảy máu, giết A La Hán và gây chia rẽ trong Tăng Đoàn.

Đức Tangtong Gyalbo