CHIA SẺ

Avalokiteshvara SahasrabhujalokeshvaraGDS

“Trong lúc thiền định, đừng bao giờ để bị kích động bởi những gì mà hành giả có cảm giác như là một dấu hiệu của sự thành công như: cảm giác thú vị khinh an (nhẹ nhàng) có cảm xúc ấm áp, thấy ánh sáng…”

DẪN TẬP

Bằng một phương pháp hết sức đặc thù, quyển sách nhỏ này đã diễn tả sự phát triển tâm từ bi và tuệ giác siêu việt của hàng Bồ Tát. Trong Phật Giáo, có rất nhiều phương pháp như thế; nhưng, ở đây (trong sách này), chỉ đặc biệt đề cập đến một phương pháp, đó là: Quán Âm Quán Tưởng Tu Pháp. Quán Âm Quán Tưởng Tu Pháp là một Pháp chuyên quán tưởng đến một vị Bồ Tát siêu đẳng, lừng danh có tên là Quán Thế Âm và thần chú: Lục Đại Tự Minh (Om Mani Padme Hùm). Pháp tu này đã được truyền thừa bởi Đạo Sư Tangtong Gyalbo (Thang-Stong rGayl-po), vị Thánh Tăng của Phật Giáo Tây Tạng ở vào thế kỷ thứ 15. Cho đến nay, pháp môn này vẫn đang được mọi người đón nhận và hành trì một cách sâu rộng, thâm thiết.

Phần lớn, trong suốt dòng lịch sử của Phật Giáo, ta thấy, có rất nhiều quốc gia ở Á Châu, đã sùng tín, thực hành pháp tu liên hệ đặc biệt đến pháp tu Quán Âm và Lục Tự Minh Chú này; Vì lẽ, Quán Thế Âm Bồ Tát là vị Bồ Tát đã được toàn thể nhân gian tôn kính như là một biểu tượng tối cao của Đại Bi Tâm của Bậc Bồ Tát. Bậc Bồ Tát# là một bậc thệ nguyện đạt đến quả vị giác ngộ theo giáo lý của Phật, để, trên cầu Phật Đạo, dưới độ chúng sanh; và, nếu còn có một chúng sanh nào trên thế gian này mà chưa độ thì, Bồ Tát nhất định không thôi nghỉ. Quán Âm Bồ Tát là một trong những vị Bồ Tát đã thực hiện rất sớm thệ nguyện rộng lớn này; vì thế, đối với nhiều người tu hành trong Phật Giáo, Bồ Tát Quán Âm đã thường được nhận là có một quan hệ bất khả phân với sự cần Đạo Giác Ngộ, Giác Thoát.

Danh xưng Quán Âm vốn tiếng Phạn: Avalokiteshvara (tiếng Sanskrit, văn tự cổ Ấn Độ, nơi mà từ đó Phật Giáo đã khởi nguyên). Avalokiteshvara có nghĩa là Bậc có oai lực xem xét và bảo hộ chúng sanh. Ngài cũng được tôn xưng là Mahakarunita (Người có Đại Bi Tâm) và Padmapani (Kẻ thủ trì hoa sen – Liên Hoa Thủ). Chúng ta có thể tìm hiểu Quán Âm Bồ Tát trong kinh “Duy Ma Cật” (Vimalakirtinirdesha Sutra) và phẩm thứ 25, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharmapundarika Sutra). Theo “Cực Lạc Trang Nghiêm Kinh” (Sukhavativyuha Sutra), Ngài là thị giả của Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang) và đã có một quan hệ rất rõ rệt đối với Tịnh Độ. Ngoài ra, có một bộ kinh hết sức trọng yếu, đó là kinh Karandavyuha Sutra, kinh này đã thuyết minh một cách chi tiết, rõ ràng Tâm Đại Bi và oai lực thần thông diệu dụng của Quán Âm Bồ Tát. Kinh “Lăng Nghiêm” (Shurangama Sutra), cũng đã giải thích về phương pháp Khế Chứng Vô Ngã của Quán Thế Âm. Trong “Bát Nhã Tâm Kinh” (Prajnaparamita-hrdaya Sutra) Quán Âm đã xiển minh cùng cực triết lý thâm áo về Trung Đạo Bất Nhị; và trong “Liên Hoa Võng Mật Kinh” (Padmajala Tantra) đã hàm chứa rất nhiều tư liệu nói rõ sự quan hệ giữa Quán Âm và Mật Tông Kim Cang Thừa (Vajrayana).

Thệ nguyện của Quán Âm là tế độ tất cả chúng sanh, một trong những phương pháp mà Ngài đã sử dụng là quan sát nhu yếu của tình cảnh chúng sinh để tùy loại hiện thân. Vì để tuân thủ lời nguyện của Ngài nên Ngài đã phân thân thành rất nhiều chủng loại và thị hiện qua nhiều hình thái khác nhau trước mỗi một chúng sanh trong rất nhiều cảnh giới. Khi cần thiết, thậm chí Ngài có thể hóa thân làm những vật vô tình như cầu cống, phòng xá, nơi trú ẩn, nương thân. Trong truyền thống tạc tượng chạm trổ hình đồ về sự thị hiện của Bồ tát Quán Âm, chúng ta cũng thấy được những loại biến hóa như thế. Song, những hình thái bất đồng đó có thể được coi như là sự hiển thị đa dạng của Phật tánh đồng nhất mà thôi.

Ở vào thời kỳ rất sớm tại Ấn Độ, hình tượng của Quán Âm phần nhiều đã được phát hiện dưới hình thức của một vị Vương Tử đang đứng, mình mặc áo mũ vương giả. Ta thấy, cũng có nhiều pho tượng ngồi trong tư thế nghỉ ngơi thoải mái (gọi là tư thế du hý, “latitasana”); ngoài ra, còn có một tượng rất nổi tiếng có tên là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm, mục đích của Thiên Thủ là đáp ứng một cách trọn vẹn sự kỳ cầu vô tận nhưng vô cùng cần thiết của tất cả chúng sanh. Quán Âm còn xuất hiện trong một hình tướng phẫn nộ như Phục Bộ Thần Mã Đầu Minh Vương (Hayagriva), lý do của sự xuất hiện này là vì đôi khi bên cạnh lòng Từ Bi đòi hỏi phải có những thế lực mãnh liệt để làm chúng sinh kính sợ. Phương pháp Thiền Định Quán Âm (hay “thiền định cho tất cả chúng sanh qua suốt cõi không gian”) được trình bày trong quyển sách nhỏ này có liên hệ đến thế ngồi của Quán Âm với một đầu và bốn tay, hình tượng này đã trở thành một hình tượng hết sức đặc thù và vô cùng trọng yếu tại Tây Tạng. Những chi tiết diễn tả về hình dạng Quán Âm với bốn tay sẽ được trình bày trong chương sau.

Sau khi Phật Giáo được truyền từ Ấn Độ vào các nước Á Châu, vị thế của Quán Âm lại ngày một gia tăng rộng lớn. Nhiều ngôi chùa lớn tại Đông Nam Á đã thờ phụng Thế Tự Tại Vương (Lokeshvara), một hiện tướng khác của Quán Âm Bồ Tát như là phản hiện với thần Shiva của Ấn Độ Giáo. Tại phương Bắc, ở Nepal (Nê Bạc Nhỉ), đã từng có đến 108 hình tượng Quán Âm. Những hình tượng này rất có thể vẫn còn thấy được hiện diện trong một cổ miếu tại Kathmandu. Người Tây Tạng đã xem Quán Âm Bồ Tát (Tây Tạng tôn xưng là Chenrezig) như là một lý tưởng tối cao của Phật Giáo đồ. Rất nhiều bậc Thánh Tăng của Tây Tạng, đặc biệt là đức Dalai Lama (Đạt Lai Lạt Ma) được coi như là hóa thân của Quán Âm Bồ Tát. Tại Viễn Đông, vị thế quan trọng của Quán Âm Bồ Tát đã phổ biến một cách hết sức rộng rãi; đặc biệt, xuyên qua những nghệ thuật phẩm nổi bậc về Quán Âm trong nhiều tư thế. Tại Trung Quốc, Quán Âm cũng còn được tôn xưng là Quán Thế Âm, tại Nhật Bản thì gọi là Kwannon. Trong tất cả những quốc gia ở Á Châu, Quán Thế Âm đã được tôn sùng như Bậc Vô Úy Thí tối thượng (kẻ ban cho sự phòng hộ thoát khỏi mọi sợ hãi) và Ngài cũng được coi là Bậc Đạo Sư, nhất là được coi như Bậc truyền cảm, dẫn khởi, khai tác lòng Từ Bi giác ngộ sâu thẳm nhất.

Thế thì, lấy Quán Âm làm đối tượng để quán tưởng chính là con đường tối ư căn bản và hết sức hiệu lực đối với những ai chuyên tâm tầm cầu sự khai ngộ. Trong những trang được trình bày sau đây về Pháp Tu Quán Âm, hành giả phải học hỏi cách quán tưởng Bồ Tát Quán Âm một cách trực tiếp. Trong phương pháp giảng yếu này, bao gồm một thứ kỹ thuật khả dĩ khiến hành giả đang trong thiền định có thể cảm nhận được sự gia trì che chở của Quán Âm. Đang trong khi quán tưởng, hành giả và cảnh giới sở nghiệm của hành giả đều được quán tưởng như được trở thành giác ngộ viên mãn. Hành giả, lúc tụng Thần Chú Lục Tự (OM MANI PADME HUM), phải đồng lúc quán tưởng rằng: tất cả hình tướng, sắc tướng, âm thanh và tư tưởng đều đã được chuyển hóa thành hình sắc, âm thanh và tư tưởng của chính Quán Thế Âm.

Pháp Tu Quán Âm Quán Tưởng này (nguyên tác: “Thiền Định Quán Tưởng cho tất cả chúng sinh suốt cõi không gian”) đã do Ngài Tangtong Gyalbo, một vị đại thánh của Tây Tạng soạn ra. Ngài đã từng có rất nhiều kinh nghiệm tu chứng và được trực tiếp nhìn thấy sự thị hiện của chính Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tangtong Gyalbo đã được sinh ra tại Owa Latse vào năm 1361, thuộc vùng Tây bộ Tây Tạng. Lúc còn rất trẻ, Ngài đã say sưa thích thú, nhất là nghiên cứu, tu học giáo lý Phật Giáo, đặc biệt; những giáo lý có liên hệ đến Ngài Quán Âm. Ngài đã hấp thụ một trình độ giáo lý tu chứng rất cao từ các bậc thầy lớn thuộc Kim Cang Đại Thừa của Ấn Độ và Tây Tạng đương thời; trong những bậc thầy đó có Ngài Kangapa Paljor Sherah là một bậc Đạo Sư chuyên gia hành trì về Quán Âm. Ngài cũng đã bỏ ra nhiều năm ròng rã để thủ đắc công phu tu tập thiền định và đã từng trực tiếp hấp thụ một cách bí nhiệm sự chỉ dạy và tâm thuật minh kiến truyền thọ từ chư Phật và chư Bồ Tát cũng như từ những bậc Đại Sư ở nhân gian trong quá khứ. Sau đó, Ngài đã du hóa khắp xứ Tây Tạng, Ấn Độ, Bhutan (Phủ Đơn), Trung Hoa và Mông Cổ. Bất cứ nơi nào Ngài đến, Ngài đều truyền bá Minh Chú “Án Ma Ni Bát Di Hồng” (OM MANI PADME HUM) cho rất nhiều đệ tử của Ngài.

Pháp Tu Quán Âm do Tangtong Gyalbo soạn ra đã được đặt căn bản trên sự thân kiến và những kinh nghiệm tu chứng bản thân về Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài đã truyền trao pháp tu cho các đệ tử, và sau đó đã được tương truyền từ thế hệ này rau thế hệ khác và cho mãi đến hôm nay. Vào thế kỷ thứ 19, pháp tu này đã rất được tán dương và phục hồi bởi hai vị Hòa Thượng Tây Tạng Jamyang Khyentse Wangbo Rinpoche và Jamgon Kongtrul Rinpoche. Nhờ thế, pháp tu này đã được truyền bá và thực hành rộng rãi đến toàn thể Phật Giáo đồ trên khắp thế giới.

Kỹ xảo trọng yếu mà Tangtong Gyalbo đã sử dụng để phát triển bao gồm nghi thức Đoạn Ngã (phá trừ ngã chấp, chữ Tây Tạng gọi là pháp tu GCOD – đọc là chod) và thuật Mật Tông Du Già bí truyền từ Dakini Niguma (em của Sư Tổ Mật Tông Naropa) và phương pháp quán tưởng Vô Lượng Thọ Phật (Amitayus) để làm tăng thêm tuổi thọ. Đặc biệt Tangtong Gyalbo còn được người Tây Tạng ngưỡng mộ một cách cao độ vì công trình kiến thiết cầu treo bằng sắt trên toàn cõi Tây Tạng. Sau khi phát hiện mỏ thiếc đồ sộ, phong phú, Ngài đã phát minh ra phương pháp luyện thép để chế tạo một loại thép không rỉ sét. Những chiếc cầu treo được Ngài kiến tạo theo phương pháp này, cho đến nay vẫn còn được sử dụng.

Tangtong Gyalbo viên tịch vào năm 1485, Ngài đã sống với một tuổi thọ rất cao (Ngài sống đến 124 tuổi), vì thế đã chứng minh một cách hùng hồn cái công hiệu của thuật tăng tuổi thọ mà Ngài đã truyền dạy. Từ những hành hoạt về Bồ Tát Hạnh vô cùng lợi ích đối với dân Tây Tạng trong cuộc sống của Ngài; vì thế, Ngài đã được tôn kính và được coi như là bậc hóa thân của Bồ Tát Quán Âm. Tangtong Gyalbo hiện vẫn tiếp tục thọ sanh (tái sanh) như một bậc thượng sư muôn đời tại Tây Tạng. Hiện thân của Ngài hiện nay là Drubtob Rinpoche, ngài đã chào đời tại Golok thuộc miền Đông bộ Tây Tạng vào đầu kỷ nguyên này. Drubtob Rinpoche đang ở Bhutanvà Ngài hiện là một bậc được tôn như là đại Minh Sư thần thông viên thành (Siddha) của “Thiết Kiều hệ, Mật Tông Tây Tạng”. Toàn bộ phương pháp giảng dạy của Tangtong Gyalbo đều được hoằng dương nơi những đạo tràng của Ngài, trong đó, gồm cả pháp tu Quán Âm. Đã có rất nhiều bậc thượng sư khác cũng đã truyền thọ pháp tu này như ngài Deshung Rinpoche ở Seatle, Washington, Ngài Kalu Rinpoche ở các trung tâm truyền bá Phật Giáo của Hòa thượng trên khắp thế giới, và Ngài Lama Kunga ở Ewam Choden Center tại Berkeley, California.

CHƯƠNG I

NHỮNG CHỈ DẪN TỔNG QUÁT VỀ PHƯƠNG PHÁP THIỀN ĐỊNH

Trước khi trình bày phương pháp tu hành thực dụng: “Quán Tưởng Thiền Định cho tất cả chúng sinh suốt cõi không gian”, điều cần yếu là giải thích một số tâm thuật căn bản để thực hành lối Quán Tưởng này. Bối cảnh tâm thuật này rất quan yếu để tu hành hầu thực chứng phép thiền quán này một cách thích đáng, hữu hiệu. Những ai tu học mà không được sự hướng dẫn riêng biệt của bậc Đạo Sư kinh lịch trong truyền thống Mật Tông và những người nào chưa có kinh nghiệm về thiền định Phật Giáo, đều cần phải nghiên cứu thật cẩn thận những kỹ xảo tâm thuật căn bản này.

Điều cần chú ý ở đây là: Những người có ý tuân phụng Phật đạo, tốt nhất cần phải có một vị Thượng Sư. Vị Thượng Sư hợp cách là người có rất nhiều kinh nghiệm phong phú đối với pháp tu của Phật Giáo. Vị ấy được truyền thừa một cách không gián đoạn (vĩnh truyền) từ Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, và được công nhận trong Tăng già là những bậc đã đạt đến trình độ chứng ngộ rất cao mà trí huệ và lòng từ bi đều viên dung vô ngại. Chỉ có bậc thượng sư như thế mới có thể sách tấn, sữa chữa và là động cơ thúc đẩy cho sự nỗ lực tu học của đàn hậu tấn. Chỉ có những bậc đại sư như thế mới chỉ bày cho chúng ta những cảnh giới chứng ngộ chân chánh, mục đích đích thực cho tất cả mọi nỗ lực của chúng ta. Chỉ có những bậc đại sư như thế mới có thể bảo hộ chúng ta không phạm vào những sai lầm tội lỗi mà chúng ta có thể phạm, đồng thời lãnh đạo, chỉ dẫn chúng ta một cách đích thực và thích thời nhằm đạt đến cảnh giới cao hơn. Đối với những người học về Kim Cang Thừa, vị Thượng Sư rất là trọng yếu. Chính sự quan hệ chặt chẽ giữa thầy và trò đã là chất liệu ràng buộc, thúc đẩy ta quyết tâm thực hiện và đạt đến Phật đạo hoàn mỹ nhất. Vì pháp tu Quán Âm Quán Tưởng này trực thuộc vào Kim Cang Thừa, cho nên, hành giả cần phải đem hết khả năng để tìm cầu một vị Thượng Sư chân chính hầu chỉ dẫn cho sự tu học và xem tập sách nhỏ này như là một hỗ trợ cho sự huấn thị cao quý của bậc Thượng Sư. Dù vậy, những ai hiện đang trong tình trạng không có sự liên hệ với một bậc Thượng Sư hợp cách thì vẫn có thể tận dụng toàn bộ khả năng và nỗ lực của chính mình để tu tập Quán Âm Quán Tưởng và như thế cũng chẳng có gì nguy hiểm cả. Thực sự thì, pháp tu đặc biệt này cũng đã được lập ra để có tính cách thích ứng và hữu dụng cho chính kẻ sơ tâm mới bắt đầu tu học. Phương pháp này tuy bao gồm những giáo lý tu chứng ở mức độ tối cao nhất, nhưng cách trình bày ở đây có tính cách dung hóa khả dĩ giúp đỡ được cho người sơ học và cho tất cả những bậc có kinh nghiệm cao, cả hai đều có thể đạt được lợi ích. Pháp tu Quán Âm Quán Tưởng này, dù là pháp tu của Mật Tông Phật Giáo, thế nhưng vẫn không mang tính cách phức tạp nguy hiểm của pháp tu mật giáo, đồng thời, vẫn bao gồm đủ những nguyên lý tối thượng đưa đến Giác Ngộ viên mãn.

Giống như tất cả phép tu Quán Tưởng khác trong Phật Giáo, phép tu Quán Âm Quán Tưởng này đòi hỏi hành giả cần tu học những tâm thuật kỹ xảo căn bản về Chỉ và Quán. Những kỹ xảo này đã được trình bày một cách đầy đủ, chi tiết trong rất nhiều kinh sách của Phật Giáo. Những gì được trình bày sau đây chỉ là những yếu điểm có tính cách cương lãnh mà thôi.

1 – ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN

Mặc dù có thể thực hiện sự tu Quán trong tất cả mọi cảnh huống (hoàn cảnh); nhưng, lý tưởng tuyệt vời nhất vẫn là một đạo tràng thanh tịnh có khả năng giảm thiểu tối đa sự quấy nhiễu chung quanh. Nếu được như thế thì đó là điều kiện tốt nhất cho những người mới bắt đầu tu học. Nếu có thể, nên thiết lập một căn phòng đặc biệt hay sử dụng một góc nhỏ để có thể bảo đảm sự thanh tịnh cho công việc tu Quán hằng ngày. Trong phòng hay trong một góc phòng (khu vực tu tập) cần nhất là nên tránh xa sự hoạt động của thế tục. Phải bảo trì trọn vẹn sự thanh khiết. Không nên trần thiết (trưng bày) những phẩm vật thế tục hoặc những vật dụng không liên quan đến sự tu quán. Trong khu vực này, mình có thể kê một chiếc bục hoặc bàn thờ để thờ phụng cúng tượng Phật hoặc những vật tượng trưng cho giáo lý Đức Phật. Theo đó, bên cạnh có thể trần thiết, trưng bày một vài loại như: hoa, hương, nước, đèn cầy, v.v…, trên một bục thấp hơn. Trong trường hợp này, nếu có thể có được một tôn tượng Quán Thế Âm hay một bức ảnh của Ngài thì không gì tốt bằng. Đặc biệt, nếu thờ một tượng Quán Âm như đã trình bày trong pháp tu Quán Âm Quán Tưởng thì rất quý.

Điều kiện tốt nhất cho sự tu quán là sắp xếp một thời giờ đặc biệt và nhất định cho từng ngày. Rất có nhiều người thích tu luyện vào mỗi sáng sớm thanh tịnh trước khi khởi đầu cho những sinh hoạt trong ngày, vì giờ giấc này là khoảng thời gian mà tâm và cảnh thanh tịnh nhất. Giờ mặt trời lặn (hoàng hôn) cũng là một trong những giờ giấc rất tốt. Thời gian có thể tùy nghi chọn lựa, miễn sao thích hợp với chương trình sinh hoạt hằng ngày của mỗi một cá thể. Nhưng, nhất định phải có một sự chọn lựa khôn khéo để bắt buộc chính mình phải tuân theo mỗi ngày nhằm nuôi dưỡng và tạo thành một thói quen cố định.

Tính cách quyết định về thời gian tu tập dài hay ngắn còn tùy thuộc vào năng lực và chương trình bận rộn hay thư thả của mỗi người. Tuy nhiên, tốt nhất là nên giữ đúng giờ giấc đã quy định cho sự tu tập hằng ngày. Để tránh sự thất bại trong việc tu hành, lúc mới bắt đầu tu tập, không nên có tham vọng quyết định tu tập trong thời gian quá lâu. Nếu có thể, nên tu tập 15 phút mỗi ngày, như thế sẽ đạt được lợi ích lớn. Thời gian tu tập có thể kéo dài tùy theo hoàn cảnh của mỗi người, sau đó tùy hoàn cảnh thuận tiện có thể tăng dần thì giờ lên.

 2 – NHỮNG MỤC TU TẬP KHÁC

Pháp tu Quán Âm Quán Tưởng này vốn là một pháp tu hết sức hoàn hảo và cụ túc; nhưng, trong thời gian quán tưởng, thiền định, hành giả cũng có thể tu tập thêm những pháp môn khác mà mình đã thọ trì. Chẳng hạn hành giả đang hành trì pháp môn Lễ Phật, thì cứ thực hành pháp môn Lễ Phật trước khi ngồi xuống để tu Quán. Cũng có thể trước khi tu Quán Âm pháp hành giả cũng có thể thực hành phép quán tưởng thanh tịnh của Kim Cang Tát Đỏa cùng lúc mới việc trì tụng Bách Tự Minh Chú. Việc sắp xếp và thu dụng thêm những pháp môn khác còn tùy theo căn cơ và mục đích của hành giả; trong trường hợp này, hành giả cần nên tham khảo ý kiến của bậc bản sư mình.

 3 – THẾ NGỒI TRONG LÚC TU QUÁN

Thế ngồi lý tưởng nhất trong lúc tu quán là ngồi trên sàn nhà hoặc ngồi trên tọa cụ, Kim Cang Tọa (gọi là thế ngồi kim cương, “vajra” cũng gọi là Liên Hoa Tọa). Bắp đùi trái ở trong bắp đùi phải ở ngoài, cả hai bàn chân đều nằm ngược nhau trên đùi, nhưng cũng có thể ngồi theo tư thế bán già (bán Liên Hoa Tọa; thế ngồi như nửa hoa sen): Bàn chân trái để lên đùi chân phải hay ngược lại; hoặc đơn giản hơn là: ngồi theo thế hai chân đâu ngược vào nhau, lưng thật thẳng nhưng không quá cứng ngắc. Hai tay có thể xếp một cách đơn giản tùy tiện trên lòng bàn chân hay theo hình thức tham thiền thông lệ, bàn tay phải đặt lên lòng bàn tay trái, hai đầu ngón tay cái cụng nhẹ vào nhau. Đầu phải giữ cho thật ngay thẳng, và, hai mắt khép nhẹ (nửa mở nửa nhắm). Không nên nhìn chú mục vào bất cứ vật gì hay điểm nào (dĩ nhiên là ngoại trừ vật đang quán tưởng). Miệng ngậm nhẹ nhưng thanh thản thoải mái, không căng thẳng, đầu lưỡi cong lên và chạm nhẹ nướu hàm trên.

4 – TU CHỈ PHÁP

 Trong lúc tu tập quán tưởng, CHỈ là một yếu tố vô cùng quan trọng. Nói một cách đơn giản thì: CHỈ (cũng tức là ĐỊNH) chính là sự giảm thiểu những tư tưởng vọng niệm, phù động vẩn vơ, buộc tâm ý ngưng tụ, lắng đọng để tập trung nhất tâm vào đối tượng quán chiếu. Kỹ xảo về sự tu CHỈ đã được trình bày một cách sâu sắc trong kinh sách Phật giáo. Những kinh nghiệm về sự tu Chỉ sẽ giúp rất nhiều cho pháp tu Quán Tưởng. Vì thế, những ai tu học mà chưa thể phát triển công phu Chỉ Định một cách đầy đủ, điều kiện tiên quyết và tốt nhất là cần nên luyện tập Chỉ Định trong một vài tuần trước khi bắt đầu tu tập về pháp tu Quán Âm Tưởng này. Việc học về Chỉ Định rất tốt, nó có khả năng dẫn đến một điều kiện sức khoẻ khương tiện. Trên phương diện tâm lý, nó cũng có khả năng đưa đến một lợi ích đáng kể có thể nhận thấy được.

Một trong những phương pháp tu CHỈ đơn giản là: tập trung sự chú ý vào hơi thở của chính mình. Sau khi ngồi thiền trong một tư thế tốt, chỉ thở ra hít vào trong một nhịp điệu bình thường, thoải mái, thư thả, nhịp nhàng. Không nên cố sức cưỡng chế làm cho căng thẳng dù chỉ là mảy may. Tâm không nghĩ đến bất cứ việc gì khác, chỉ tiếp tục chú ý theo dõi hơi thở. Có thể áp dụng phương pháp Sổ Tức (đếm hơi thở). Bắt đầu đếm từ một đến mười, sau đó bắt đầu đếm lại. Thì rất có lợi ích.

Một phương pháp tu CHỈ (năng lực tập trung tư tưởng) đơn giản khác là dùng một phẩm vật đơn giản làm đối tượng. Ví dụ: lấy một mảnh vải nhỏ hình vuông, một đóa hoa giản dị, v.v… chẳng hạn. Hãy đặt vật ấy trước mặt khoảng chừng năm feet và ngồi trong một tư thế thiền tọa, tập trung toàn bộ nhãn lực, chăm chú nhìn vào vật đó; Đừng để tâm suy nghĩ đến bất cứ vật nào khác. Cũng có thể gom hết tâm lực tập trung tư tưởng vào một ảnh tượng đang ở trong tâm như một điểm nhỏ có màu sắc hoặc tập trung tư tưởng vào ngay chính trực thức, giác tánh rỗng lặng.

Những Pháp tu đơn giản này chỉ cốt làm cho tâm của hành giả đạt được sự tu tập trong an định, đồng thời giúp hành giả tăng tiến phương diện trực giác. Nếu trong thời gian tu tập những phương pháp Chỉ (tập trung tư tưởng) này, lúc đầu tâm tư bị tán loạn và phát sanh những ưu phiền của thế tục, vọng tưởng, ảo giác, v.v… thì hành giả chỉ cần tri nhận rằng: Những thứ tạp niệm này đều là những thứ hư ảo do tâm tạo nên. Sau khi tri nhận rằng tất cả vọng niệm đều do chính tâm mình tạo ra, thì điều ấy lập tức đưa tâm trở về sự quán tưởng.

Có một việc tối cực trọng yếu mà hành giả cần phải tuyệt đối chú ý là: trong lúc tu Chỉ Quán (thiền định), không nên chấm dứt một cách bất ngờ đột ngột. Trong quá trình từ cảnh giới của định lực thanh tịnh, nên trở lại, cảnh giới của thế tục một cách êm dịu, từ từ, thoải mái.

Kỹ xảo của sự tu Chỉ (được gọi là shamatha hay dhyana hay thiền) đã được ghi lại một cách thâm sâu với một số lượng không thể kể xiết trong các kinh sách Phật Giáo. Hành giả có thể tham khảo để học hỏi thêm những chi tiết rõ ràng. Hơn nữa, việc tu hành thực dụng pháp môn Quán Tưởng Quán Âm này, lúc được lặp đi lặp lại nhiều lần, tự nhiên sự tập trung tư tưởng của mình (Định Lực) sẽ khai triển trong bất cứ trường hợp.

5 – QUÁN TƯỞNG PHÁP

Điểm căn bản của phép tu Quán Tưởng là chuyển hóa cái thực tại được thể nghiệm về chính bản thân, ít nhất là trong thời gian thiền định. Dụng ý chính là hành giả càng tốn nhiều thời gian tâm thức để dụng công quán tưởng đến Phật, Bồ Tát, v.v… bao nhiêu thì bản chất của toàn diện tâm cảnh quan kiến của mình được hanh thông lợi lạc bấy nhiêu. Ngoài ra nếu có người nào có đầy đủ năng lực để có thể quán tưởng toàn thể vũ trụ như là đang trở thành cảnh giới giác ngộ thì nhất định người đó sẽ được tăng trưởng năng lực vĩ đại, đủ sức chế ngự và làm chủ được những tình cảm, những tri nhận và những kinh nghiệm trong đời sống. Tâm thức mình phải có sẵn tín niệm cơ bản rằng: Tự thân của mỗi một chúng ta có sẵn đầy đủ một năng lực phi thường có khả năng đặt đến sự giác ngộ, và do đó có khả năng sống trong một thế giới giác ngộ.

Một cách tổng quát thì: phát triển năng lực của sự quán tưởng là một việc tương đối khó khăn, và điều này còn tùy vào căn khí và tập khí của mỗi người mà có sự sai khác. Có một ít người đã gặp phải một số vấn đề nhưng một số khác thì sự khó khăn đã không phải là không ít. Điểm tối trọng yếu là hành giả không nên kỳ vọng quá cao trong thời gian đầu.

Phương pháp quán tưởng là tiến trình dụng tâm để làm cho những hình tượng của sự tưởng tượng biến thành cụ thể chân thật. Hay nói một cách khác: Sự Quán Tưởng là tiến trình cố ý nhìn thấy một hình ảnh mà mình đang tưởng tượng bằng cách sử dụng một số tác dụng tinh thần như trí nhớ, sự tưởng tưởng và sự tập trung tư tưởng, mình có thể vận dụng tâm thức để tạo tác ra hình ảnh (hay gợi cho hiện ra hình tượng) trong một cứ điểm nhất định trong không gian. Ban đầu những hình tượng này rất mơ hồ, hư ảo, nhưng sau khi đã luyện tập phương pháp một cách thuần thục thì hành giả sẽ “thấy” những hình tượng này một cách rõ ràng như bất cứ ngoại vật nào dưới nhãn quang của mình.

Có rất nhiều phương pháp khác nhau để đạt đến sự tựu thành sự Quán Tưởng này. Vài bậc Thượng Sư khuyên là nên bắt đầu thử quán tưởng một hình ảnh mơ hồ của toàn thể cảnh tượng rồi từ từ làm cho nó sáng tỏ khi mình trở nên quen thuộc hơn với hình ảnh và tiến trình quán tưởng. Cũng có những bậc Thượng Sư khác dạy là nên bắt đầu bằng những phần nhỏ của hình tượng, mỗi một bộ phận đều quán tưởng một cách minh bạch và từ từ đem chúng ghép lại thành một hình tượng trọn vẹn (phương pháp này rất là ích lợi và tiện dụng cho việc quán tưởng phức tạp hơn về chư Bồ Tát và chư Thiên). Phương pháp thứ ba là bắt đầu ngó nhìn thật lâu vào một hình tượng cho đến khi việc quán tưởng hình ảnh này trở nên dễ dàng thực hiện.

Không luận là sử dụng phương pháp gì, trong thời kỳ đầu của sự tu Quán, nếu sự quán tưởng không được ổn định thì đừng bao giờ nản chí. Những hành giả sơ cơ thường hay kể lại những vấn đề vấp phải trong việc quán tưởng, và những vấn đề thường gặp là: Không có khả năng để quán tưởng gì cả; hình tượng lúc tỏ lúc mờ, và mỗi lần như thế chỉ có thể thấy hình tượng một cách phiến diện, cục bộ; lúng túng không biết phải từ góc cạnh nào để nhìn hình tượng; hình tượng cứ vẫn lướt trượt khỏi đầu mình (giống như lúc luyện pháp Quán Âm Quán Tưởng, tức quán tưởng Quán Âm Bồ Tát đang ở trên đỉnh đầu của hành giả); hình tượng dường như tự phát ý riêng và bắt đầu nói cười, giỡn cợt và chơi nghịch những trò đùa khác. Ngoài ra, còn có những vấn đề thường gặp trong mọi lối tu thiền như đau nhức cơ thể, tâm thần lơ đễnh, hôn trầm, trạo cử (ý tưởng lăng xăng) khát khao, thèm muốn, những tình cảm xung động phát dậy mãnh liệt mà không thích ứng dung hợp.

Để giải quyết hàng bao nhiêu vấn đề trên, chỉ có cách trả lời duy nhất là: Không cần để ý biết tới, bận tâm đến những vấn đề đó nữa. Cứ tiếp tục giữ sự quán tưởng. Tất cả những nỗi khó khăn trên phải được coi như là những trò bịp bợm của cái bản ngã, cái bản ngã muốn chạy trốn, tránh né sự quan sát thâm cận, chạy trốn, tránh né sự hủy diệt của chính bản ngã, được thành tựu từ sự thiền định quán tưởng Phật Giáo. Cái làm cho vấn đề trở nên quan trọng chỉ là cách làm cho vấn đề trở nên thực hơn mà thôi. Hay nói một cách khác: cái việc quan-trọng-hóa bất cứ một vấn đề nào cũng đều làm cho vấn đề ấy trở nên có thực hơn bao giờ cả, nghĩa là vấn đề càng trở nên rắc rối hơn nữa.

Do đó, mình không nên để ý nhiều đến những vấn đề hay những khó khăn. Hãy cứ tiếp tục dồn hết nỗ lực của mình vào trong việc quán tưởng, thiền định như thường lệ.

Nguyên tắc này cũng áp dụng cho bất cứ kinh nghiệm đặc biệt nào khác mà mình trải qua lúc quán tưởng tham thiền, và, cũng áp dụng cho cả việc không có kinh nghiệm đặc biệt nào như vậy.

Xin cảnh cáo hành giả là: Trong lúc thiền định, đừng bao giờ để bị kích động bởi những gì mà hành giả có cảm giác như là một dấu hiệu của sự thành công như: cảm giác thú vị khinh an (nhẹ nhàng) có cảm xúc ấm áp, thấy ánh sáng, v.v… Khi Định mỗi lúc một sâu dần, những tình huống này có thể sẽ xuất hiện, nhưng, chúng không có gì vĩ đại quan trọng cả, vì thế, không cần suy cầu và cũng không cần chạy trốn chúng. Khi thấy những huyễn cảnh ảo tượng khác, cũng cần có thái độ trên. Đôi khi có thể thấy những cảnh tượng khủng bố kỳ dị khác thường, cần phải nhìn rõ bản chất không thật hư huyễn của chúng. Hãy để chúng tự biến đi, còn nếu không có những cảnh giới ấy hiện ra, thì không nên có cảm giác thất vọng hoặc nản chí mà phải luôn luôn tâm niệm rằng: Mục đích duy nhất của sự Quán Tưởng là để phát triển Trí Huệ và Tâm Từ Bi của chúng ta. Nếu đúng như pháp mà tu tập có thể thấy được rõ ràng những hình tượng, hoặc tự mình có thể ghi nhận một cách rõ ràng rằng: Tâm Từ Bi của chúng mình đang được phát triển hơn thêm đôi chút trong mọi sinh hoạt thường nhật của đời sống thì đó cũng đủ để biết rằng những điều này chính là thành quả thực thụ của phương pháp tu hành này.

Sau cùng, cũng nên ghi nhận thêm rằng, quán tưởng và thấy được những hình tượng được mô tả như hình tượng Quán Âm có thể là một cái gì xa lạ và khó khăn đối với những ai đã không từng quen thuộc với những hình tượng thông thường của Phật Giáo. Vì thế, lúc đầu có thể xem sự quán tưởng như là một loại luyện tập có thể giúp ích cho tâm lực trở thành khoáng đại và làm tăng trưởng sức chú ý, gia tăng sự tập trung tư tưởng. Nhưng, điều quan trọng hơn nữa: hình thể và những thuộc tính sắc tướng của Quán Thế Âm phải được hiểu như là đã được cố ý thiết lập ra hầu sử dụng những biểu tượng hữu hiệu và truyền cảm nhất, khả dĩ trao truyền, ban phát sự thể hiện lòng Từ Bi và Trí Huệ. Những biểu tượng này đã được giải thích rõ ràng hơn nơi chương ba. Khi mà sự quen thuộc thiết thân hơn với hình tượng và văn mạch sắc tướng của Quán Thế Âm được tăng trưởng phát huy sâu rộng hơn thì những thành viên của phần lớn những nền văn hóa nhân loại có thể có khả năng thuận dụng để liên hệ gia hưởng thỏa đáng hơn với những biểu tượng cổ kính mãnh liệt này.

(còn tiếp)