CHIA SẺ

compassion_00004

Kính lễ Đấng Bi Mẫn Siêu Việt, Avalokiteshvara, kho tàng vĩ đại của lòng bi mẫn.

Mặc dù cô gái này không thể nói như cô nên nói, tôi có nên thuật lại cho các bạn một tường thuật ngắn về Núi Potala hay không?

Cõi được gọi là Núi Potala nằm ở phía Đông nam của Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) ở Ấn Độ. Toàn thể vùng này phủ đầy những bông hoa tươi đẹp, và những cây như ý bằng châu báu phát triển ở đó. Những con suối sủi bọt cam lồ, và những đàn chim véo von tuyên thuyết Giáo Pháp. Mọi người đều sinh ra từ những đóa hoa và không có thay đổi thời tiết từ hạ sang đông. Ngay cả ý niệm về đau khổ cũng không có, trong khi kinh nghiệm về hỉ lạc và hạnh phúc thì vô biên.

Các Bồ Tát nam và nữ đã đạt một cấp độ chứng ngộ vững chắc, vui hưởng thực phẩm tuyệt vời một trăm vị, mặc y phục bằng vải sắc-cầu vồng, và uống cam lồ của các vị trời. Các ngài đã thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử, phụng sự các Đức Tathagata và nghe Giáo Pháp từ chính Đấng Bi Mẫn Siêu Việt. Dòng tâm thức các ngài được giải thoát nhờ lòng bi mẫn vô biên của các ngài. Các ngài tắm trong những cái hồ đầy nước có tám phẩm tính.

Ở đây tôi tìm thấy một tòa lâu đài đẹp tuyệt vời, tự-xuất hiện và hình thành tự nhiên, tường làm bằng năm lớp riêng biệt. Nó trong mờ cả trong lẫn ngoài, được nâng đỡ bằng một ngàn cây cột pha lê và được tô điểm bởi những đà mái bằng châu báu. Nó được trang hoàng với những cái rèm ánh sáng cầu vồng, như thể được thắp sáng bởi một ngàn mặt trời và mặt trăng. Những đà tường làm bằng lam ngọc, đầu tường bằng san hô, những bậc thang bằng ngọc trai. Vây quanh dinh thự làm bằng năm loại châu báu này là một bậc thềm thấp bằng hồng ngọc, trên đó nhiều ngàn thiên nữ cúng dường nhảy múa vui đùa. Phía trên là một mái vòm bằng vàng, với những chiếc dù bằng lụa trắng và một Pháp luân có nai quỳ gối và lắng nghe ở hai bên. Ở bốn bên của lâu đài là những miệng máng xối có đầu makara, những sợi dây bằng ngọc trai treo từ miệng chúng với những cái chuông và chuông chùm nhỏ xíu phát ra những âm thanh thú vị.

Bốn phía của tòa lâu đài được trang trí bằng bốn cửa. Tôi đi vào cửa phía tây và gặp một thiên nữ giác tánh nguyên sơ. Đi sâu vào trong, tôi thấy vô số của cải và những niềm vui dạt dào, như thể đang ở trong một ảo giác. Vô số vật cúng dường được sắp xếp, thậm chí còn vượt hơn cả của cải của những đại thiên trong cõi trời Nirmanarati.

Ở giữa những thứ này, trên một hoa sen trắng trăm ngàn cánh nở lớn, là Đức Avalokiteshvara cao quý, bậc điều phục chúng sinh bi mẫn tối thượng, với vẻ thanh xuân của một thiếu niên mười sáu tuổi. Thân Ngài có sắc trắng chói lọi, một mặt và bốn tay. Đôi bàn tay thứ nhất chắp lại nơi tim và cầm một viên ngọc, bàn tay phải của đôi tay thứ hai cầm một chuỗi hạt pha lê và bàn tay trái cầm một cành huệ trắng rực rỡ cạnh tai Ngài. Tôi bị thu hút bởi những tướng chính và phụ trên thân tướng toàn hảo của Ngài. Ngài mặc y phục bằng lụa và những vật trang sức bằng những châu báu khác nhau, trên vai choàng bộ da của một linh dương krisnasaranga trùm qua phía trái ngực. Ngài ngồi chéo chân trong tư thế kim cương, thân Ngài sáng chói lọi với vô số tia sáng. Trong tâm tôi, Ngài không khác với ngài Drimed Khakyod Wangpo, Lạt ma gốc của tôi.

Bên phải Đức Avalokiteshvara là Manidhara, Bậc Hộ trì Bảo Ngọc, trưởng tử siêu phàm của Ngài; bên trái là con gái Ngài, Vidyadhari, Bậc Hộ trì Thần chú của Giác tánh; phía sau Ngài là Đấng bảo trợ, Đức Phật Amitabha; và trước mặt Ngài là vị phối ngẫu siêu phàm của Ngài, Đức Shadakshari, Thiên nữ của Thần chú Sáu-Âm. Đoàn tùy tùng của Ngài chỉ gồm những bậc trưởng thượng tâm linh là những vị đã đạt những cấp độ chứng ngộ cao quý, tập hội không thể nghĩ bàn chư Phật và Bồ Tát.

Đức Tara, bạn đồng hành của tôi nói:

Cung điện này là một xứ sở được tô điểm bằng hoa.

Cõi giới này là một lâu đài quý báu rộng lớn vô biên.

Bổn tôn này là Bổn tôn của lòng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng.

Quyến thuộc này là một đoàn tùy tùng gồm các Bồ tát nam và nữ.

Con, cô gái may mắn, nên lễ lạy và cúng dường với lòng sùng mộ.

Hãy tụng đọc những lời nguyện ước để có một liên hệ nghiệp tích cực.

Lòng tôi tràn ngập sự kính sợ và hoan hỉ, và bắt đầu lễ lạy, khẩn cầu.

Tôi nói: Đức Avalokiteshvara Bi Mẫn, hóa hiện những tia bi mẫn khắp mười phương, con đảnh lễ Ngài, đấng bất khả phân với Lạt ma siêu phàm của con, và bất khả phân với quyến thuộc của Ngài. Con cúng dường tập hợp những vật cúng dường vô song, thực có và tưởng tượng. Với sự hối tiếc chân thành, con sám hối những ác hạnh và vi phạm giới nguyện của con, và hứa không làm những điều đó trong tương lai.

Con tùy hỉ năng lực đức hạnh vô tận. Con khẩn cầu Ngài trụ thế mãi mãi, không thị nhập Niết Bàn, và liên tục chuyển Pháp luân rộng lớn, sâu xa. Con hồi hướng công đức tích tập được để tất cả chúng sinh trong sáu loài, vô biên như không gian, có thể nhanh chóng đạt được trạng thái của Ngài, Ôi đấng cao quý siêu phàm.

Con khẩn cầu Ngài, trong mọi cuộc đời, xin ban cho con ân phước siêu việt nhất không bao giờ xa lìa Ngài, Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm.

Khi tôi khẩn cầu như thế trong trái tim tôi, Đức Bi Mẫn cao quý mỉm cười, khuôn mặt rạng rỡ, và tôi nghe những lời sau đây, trong những âm thanh du dương, dịu dàng, Pháp âm của Ngài rung động tự nhiên và vang rền tới toàn thể mạn đà la của đoàn tùy tùng:

Om mani padme hung hri.

Lạt ma của ta chính là lòng bi mẫn siêu phàm.

Ta chính là Bổn tôn hiện thân tự nhiên của lòng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng.

Hoạt động giác ngộ của ta trải rộng tới mọi chúng sinh, đối tượng của lòng bi mẫn,

và với sự xót thương, ta đặc biệt chăm sóc mọi chúng sinh trong cảnh khốn cùng.

Con, con gái ta, cũng có tâm hồn bi mẫn như thế, giờ đây may mắn được gặp ta trong cõi này.

Tất cả những ai lễ lạy và tôn kính ta với niềm tin và lòng sùng mộ

Ta sẽ đưa dẫn tới Cõi Cực Lạc, nhờ nguyện lực trước đây của ta.

Nhờ năng lực lòng bi mẫn của ta, chúng sinh vô biên như không gian trong sáu trạng thái, và đặc biệt những người ở Tây Tạng, Xứ Tuyết, có thể tạo mối liên hệ với ta nhờ nghe danh hiệu và lễ lạy ta với đức tin, và ta sẽ chăm sóc họ với lòng bi mẫn, bởi ta được gọi là Mahakarunika, Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm. Đặc biệt những ai không có khả năng tự vệ, suốt sáu thời ngày và đêm ta chăm sóc với lòng bi mẫn, đôi mắt giác tánh nguyên sơ của ta không bị ngăn che. Ta thấu hiểu tất cả họ và ban tặng những con người nhỏ bé này sự nương tựa cuối cùng từ khổ đau của họ, bởi ta được gọi là Avalokita, Đấng có Đôi Mắt Thấu suốt. Thiền định về thân tướng của ta, niệm danh hiệu ta, trì tụng tâm chú của ta, và cử hành nghi lễ chay của ta – những ai nỗ lực trong những thực hành này, mặc dù có thể họ đã phạm một hành vi cực kỳ tàn ác đưa tới quả báo lập tức vào lúc chết, ta sẽ dẫn họ tới Cõi Cực Lạc, bởi ta được gọi là Lokeshvara, Đấng của Thế Giới. Bởi nguyện lực kiên quyết từ lâu xa của ta là đưa dẫn mà không dụng công tất cả chúng sinh nào nhìn thấy ta, nghe ta nói, tưởng nhớ tới ta, hay tiếp xúc với ta tới những hàng thính chúng của Đức Phật Amitabha trong Cõi Cực Lạc, các Đấng Chiến Thắng đã tuyên xưng ta là Khorwa Rangdrol, Sự Giải thoát Tự Nhiên khỏi Luân Hồi Sinh Tử.

Than ôi! Trong những ngày cuối cùng này của Giáo Pháp của Đấng Chiến Thắng mặc dù ta chăm sóc chúng sinh với lòng bi mẫn rộng lớn hơn bao giờ hết, nhưng như thể giây buộc chiếc móc bi mẫn của ta đã đứt.

Bởi năng lực ngoan cường của ác hạnh, nhiều người đã mất niềm tin và lòng sùng mộ.

Dường như họ vuột khỏi cái nhìn bi mẫn của ta.

Giống như ánh sáng mặt trời không lọt vào hang quay về hướng bắc, họ bị đoạt mất sự hiện diện của ta, lòng bi mẫn hiển nhiên của tất cả các Đấng Chiến Thắng.

Trong khi lòng bi mẫn của ta thì không định kiến hay thiên vị, nhưng bởi tập khí ương ngạnh của họ, những niệm tưởng không thích đáng tự bản chất, chúng sinh cứ mãi lang thang trong vực sâu tăm tối của những con đường ti tiện và những trạng thái tái sinh thấp kém.

Nhận ra rằng tình huống của họ do họ tự tạo, lỗi lầm nằm nơi chính họ, trong sự chăm sóc của ta, ta tìm thấy những người bơ vơ thực sự xứng đáng với lòng bi mẫn của ta.

Thời đại trở nên tồi tệ khi bệnh tật, vũ khí, và nạn đói hành hạ họ; thọ mạng của họ ngắn lại bởi ma quân bất thần mang họ đi; ngôn ngữ của họ thoái hóa bởi họ trở nên lanh lợi trong việc lọc lừa người khác; thực phẩm của họ hư hỏng bởi họ dấn mình vào những cách sinh nhai tà vạy; cái thấy của họ suy đồi bởi họ lao mình xuống vực thẳm của học thuyết vĩnh cửu và hư vô.

Mặc dù bàn tay Đấng Chiến Thắng muốn ngăn họ lại, nhưng không dừng họ lại được. Chắc chắn là họ phải chịu đau khổ trong sự thèm khát, có phải thế không? Họ thật đáng thương với ác nghiệp của họ, khi theo đuổi những gì họ cho là lạc thú. Giờ đây các con, ôi dân chúng Xứ Tuyết, những kẻ tự thiêu đốt thịt da mình, bởi nỗi khổ của các con chỉ do một mình các con sắp đặt, chỉ một mình các con bảo đảm, và chỉ hành hạ một mình các con, hãy nhớ lại lỗi lầm che dấu to lớn đã phạm trong quá khứ, bởi nghiệp và những cảm xúc phiền não.

Đã tới lúc để ban cho các con vài lời khuyên.

Chỉ một lần duy nhất trong một quãng thời gian rất dài, các con mới có được nơi nương tựa này với sự tự do và cơ hội.

Bây giờ là lúc các con có thể gặp được các thiện tri thức và thực hành Phật Pháp linh thánh, và những hoàn cảnh thuận lợi cùng tụ hội, hãy sử dụng phần đời còn lại của các con trong chính con đường này.

Nếu ngay lúc này các con đầm mình trong vũng lầy của nghiệp hay những cảm xúc phiền não, các con sẽ gây nên đau khổ trong tương lai ở những trạng thái tái sinh thấp kém là nơi khó tìm ra ngay cả cơ hội để nghe danh hiệu của Tam Bảo.

Những thuộc hạ khiếp sợ của Yama, Thần Chết, sẽ tới lúc nào các con không biết. Một khi tâm thức các con đã có được sự hỗ trợ này, hãy thận trọng thực hành cốt tủy của Thánh Pháp.

Phật Pháp không hiện hữu chỉ vì lợi ích bề ngoài nhằm bảo vệ các con khỏi nỗi sợ và đáp ứng mọi ước muốn của các con; nó không đơn thuần là sự đạo đức giả như thế, vì vậy hãy nhìn vào tâm vô đạo đức của các con.

Giờ đây, khi các con đã sở hữu một nền tảng cho sự tự do trong một cõi giới đức hạnh, các con đã có những hột giống của lương tri đạo đức không lầm lạc để tích tập đức hạnh.

Hãy sử dụng ba điều – chánh niệm, tỉnh giác, và chú tâm – là nước và phân bón của đức hạnh, thiền định về lẽ vô thường, nó làm tăng trưởng đức hạnh.

Hãy bắt đầu vun trồng đức hạnh với lòng sùng mộ và nỗ lực liên tục.

Niềm tin và sự trông cậy là gốc rễ của đức hạnh.

Lòng vị tha bi mẫn là thân của đức hạnh.

Bồ Đề tâm ước nguyện và Bồ Đề tâm thực hành là cốt lõi của đức hạnh.

Sáu toàn thiện (sáu ba la mật) là những nhánh và cành của đức hạnh.

Ý hướng, hồi hướng đức hạnh của riêng con, và hoan hỉ trước đức hạnh của người khác là lá của đức hạnh.

Bốn phương pháp ảnh hưởng tốt đẹp tới người khác là hoa của đức hạnh.

Và tánh Không và lòng bi mẫn siêu phàm là trái của đức hạnh.

Nếu cây đức hạnh cao quý được vun trồng theo cách này, nó sẽ đem lại những trái quả nuôi dưỡng các con và những người khác, bây giờ và mãi mãi; đó là tính chất không thể sai lạc của sự tương thuộc của các pháp.

Không có phương tiện bảo vệ giống cây đức hạnh tích tập cao quý, những đức hạnh này sẽ liên tục bị hư hỏng trong bardo.

Ngu xuẩn phủ nhận nhân và quả, từ bỏ Giáo Pháp, và làm hư hỏng giới luật tâm linh của các con là trận sương giá dữ dội giết chết đức hạnh.

Gây gổ, sân hận, thù hằn, và ganh tị là trận mưa đá hung tợn làm hư thối trái quả của đức hạnh.

Tham luyến thanh danh và lợi dưỡng, và liên tục bị mắc bẫy trong đời sống của gia chủ là những con sâu đục khoét các con tự bên trong, cướp đoạt gốc rễ đức hạnh của các con.

Báng bổ hay sỉ vả các Lạt ma và Bồ Tát bởi sự tự phụ, kiêu căng, và ngạo mạn thái quá là một cơn khô hạn dữ dội làm hư hỏng những đức hạnh tích tập được của các con. Hậu quả không tránh khỏi của tất cả những điều này là sự phát triển mạnh mẽ nỗi khổ; nó là kẻ thù vĩ đại của tài sản đức hạnh mà các con đã thâu thập.

Các pháp đối trị cho những điều này là ba loại trí tuệ siêu việt, niềm tin kiên định vào bốn phẩm tính, sự hoan hỉ trước thành công của người khác, quán chiếu sâu xa về lẽ vô thường, nhàm chán vòng luân hồi sinh tử, và sự từ bỏ, chế ngự tánh kiêu ngạo, và tu tập trong một quan điểm thiêng liêng không thành kiến, Chớ bao giờ rời xa những lá chắn và sự bảo vệ này.

Ban đầu, được thúc đẩy bởi niềm tin, lòng sùng mộ, và lòng bi mẫn.

Hãy giữ các giới luật tạm thời của những thệ nguyện tám nhánh.

Hãy nhất tâm từ bỏ những phóng dật thuộc ba năng lực của các con.

Bất kỳ những gì xuất hiện đều là sắc tướng của Avalokiteshvara, nơi Ngài tất cả các Đấng Chiến Thắng hợp nhất; âm thanh nghe được là âm thanh của thần chú tinh túy sáu-âm; sự vắng mặt bất kỳ cấu trúc nhận thức nền tảng nào là phạm vi hoạt động không tạo tác của Bồ Đề tâm.

Đừng bao giờ lìa xa ba điểm trọng yếu này; hãy liên tục trì tụng lớn tiếng thần chú sáu-âm – chỉ mình điều đó là đủ.

Hãy cùng nhau thâu thập đức hạnh mà các con và những người khác tích tập trong ba thời, và sử dụng tất cả chúng như một nguyên nhân nhờ đó tất cả chúng sinh nhanh chóng thành tựu Phật Quả, hãy theo gương các Đấng Chiến Thắng và những bậc kế thừa của các Ngài với những lời cầu nguyện hồi hướng và ước nguyện; chủ đề hợp nhất này giống như một dây cương dẫn dắt một con ngựa tốt.

Nếu các con nỗ lực liên tục trong bốn loại thực hành đức hạnh, vào giờ chết, ta sẽ đưa dẫn các con trong một trạng thái cực kỳ hoan hỉ tới cõi Cực Lạc thuần tịnh.

Hãy nói với dân chúng Tây Tạng rằng chớ có nghi ngờ điều này.

Đừng do dự! Đây là lời khuyên thương yêu và chân thành của ta.

Đừng bám chấp vào đời này; nó giống như một giấc mộng dễ chịu.

Đừng bị cám dỗ bởi cái xấu; điều ác hại mà các con có thể tự gây cho mình không có lúc chấm dứt.

Đừng củng cố tám ảnh hưởng thế tục; các con sẽ chỉ lừa gạt chính mình.

Đừng tạo lập mọi thứ kế hoạch; nhớ rằng các con có thể chết ngày mai.

Hãy cần mẫn hiến dâng năng lực ba phần cho Thánh Pháp.

Đây là sự tốt lành vĩ đại nhất mà toàn thể dân chúng Tây Tạng tự họ có thể làm.

Nếu các con có một thái độ thiện lành toàn hảo như thế, hãy liên tục trì tụng thần chú mani và tare và khuyến khích mọi người thực hành đức hạnh trong bất kỳ cách nào các con có thể.

Về sau, các con có thể đi tới mọi cõi thuần tịnh mà các con ước nguyện.

Con không xa lìa ta, con gái, vì thế hãy hoan hỉ.

Nghe những lời này, tôi đã trải nghiệm một niềm tin siêu phàm, hỉ lạc, và để khẩn cầu Đức Bi mẫn ban phước, tôi đọc bài kệ sau:

Đức Avalokiteshvara, bất kỳ sắc tướng nào của Ngài, bất kỳ quyến thuộc, thọ mạng, và cõi thuần tịnh nào của Ngài, và bất kỳ phẩm tính cao quý nào của Ngài, cầu mong con và những người khác hoàn toàn giống như Ngài.

Chắp hai bàn tay lại, tôi hỏi rằng sau này tôi có được gặp lại Ngài nhiều lần hay không. Đấng cao quý trả lời:

Những ai gìn giữ một thái độ quan tâm với lòng sùng mộ, ta sẽ hiện diện trước mặt họ; ta ban cho họ lễ quán đảnh và các ân phước.

Chớ có hoài nghi điều này, Ôi người nữ của Tara.

Tôi cảm thấy một sự xác tín lớn lao chưa từng có về tính chất chân thật của những lời này. Tôi nhiễu quanh Đấng Chiến Thắng ba lần, đi xung quanh sân trong tòa lâu đài nguy nga của Ngài trong khi đọc bài kệ sau:

Trong mọi cuộc đời, cầu mong con không bao giờ xa lìa Lạt ma, Pháp vương của các đấng cao quý.

Cầu mong con vui hưởng sự tráng lệ của Pháp, hoàn thiện các phẩm tính của con đường và cấp độ.

Cầu mong con mau chóng đạt được trạng thái của Đức Avalokiteshvara.

Ở đây tôi sẽ đưa ra một ít luận giảng dựa trên Kinh điển để làm tăng thêm vẻ đáng tin cậy cho những điều tôi vừa thuật lại.

Đức Avalokiteshvara cao quý và tôn kính biểu lộ lòng bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng. Hằng hà sa số kiếp về trước, chính trong thế giới này, trong một đại kiếp tên là Graha có một vị đại đế có danh hiệu là Aranemi, ông có một ngàn người con trai. Người con trai cả tên là Animisha, là người đầu tiên phát khởi thái độ giác ngộ Bồ Đề tâm trước sự hiện diện của Đức Như Lai Ratnagarbha (Bảo Tạng Như Lai).

Có một lần, ngài nghĩ tưởng tới tất cả chúng sinh trong sáu trạng thái tái sinh với lòng bi mẫn, đặc biệt ngài đã nguyện: “Cầu mong chúng sinh không được giúp đỡ, bị lâm vào cảnh khốn khổ, dính mắc trong nhân quả, sẽ lập tức thoát khỏi đau khổ nhờ nhớ tưởng tới tôi hay niệm danh hiệu của tôi. Cầu mong tôi không bao giờ đạt được sự toàn giác cho tới khi tôi chấm dứt mọi nỗi khổ đau của chúng sinh.”

Khi Ngài đã viên mãn hoạt động sâu xa và rộng lớn của Ngài, Ngài mang danh hiệu Avalokiteshvara, một Bồ Tát vĩ đại và dũng cảm. Có tiên tri rằng trong tương lai, trong cõi Sukhavati-padmapradesha, với tư cách là nhiếp chính của Đấng Chiến Thắng siêu phàm Amitabha (Đức Phật A Di Đà), Ngài sẽ giác ngộ là Đức Như Lai Rashmisamudra-shrikutaraja và thành tựu lợi ích to lớn hơn cho chúng sinh. Phù hợp với lời nguyện được tiên tri này, Ngài làm việc thậm chí còn mạnh mẽ hơn vì lợi ích của chúng sinh trong sáu loài nói chung và đặc biệt là chúng sinh ở Xứ Tuyết Tây Tạng. Như Kinh Hoa Sen Trắng của Thánh Pháp nói:

Bồ Tát Akshayamati (Bồ Tát Vô Tận Ý) kính bạch Đấng Chiến Thắng, Đức Phật Toàn Giác, Đấng Thế Tôn, hỏi rằng: “Đức Thế Tôn, vì sao vị ấy được gọi là Avalokiteshvara?”

Đức Thế Tôn trả lời: “Chỉ nhờ nghe danh hiệu của Đức Avalokiteshvara mà hàng tỉ tỉ chúng sinh đang phải chịu đựng đau khổ sẽ hoàn toàn thoát khỏi những gánh nặng đau khổ không thể chịu đựng nổi. Bất kỳ khi nào chúng sinh bị đe dọa bởi lửa, nước, thuốc độc, vũ khí, thú dữ, những yêu tinh dạ xoa ác hại, quỷ ma, sự tù đày, trộm cướp v.v.. họ sẽ được cứu thoát. Họ sẽ thoát khỏi năm độc của những cảm xúc phiền não và thoát khỏi mọi phương cách hãm hại. Nếu họ chỉ lễ lạy Ngài với đức tin trọn vẹn, mọi mục đích của họ không loại trừ điều nào sẽ được thành tựu tự nhiên.”

Kinh Quý báu về Dãy Bình (Kinh Đại thừa Trang Nghiêm Bảo Vương) nói:

“Bồ Tát Nivaranavishkambhin (Trừ Cái Chướng) hỏi rằng vẻ vô cùng chói lọi của những năng lực kỳ diệu phi thường của Bồ tát của lòng bi mẫn siêu phàm thì giống điều gì.

Từ kim khẩu của Đức Như Lai phát ra những lời này: “Đức bi mẫn Avalokiteshvara đem chúng sinh trong các cõi địa ngục tới chỗ thuần thục tâm linh viên mãn. Khi đã mang hình tướng của một vị đại đế an trụ hoàn toàn thoải mái tại một khu rừng an lạc trong kinh thành của các ngạ quỷ, Ngài mang lại một sự mát mẻ dễ chịu cho những người bị lửa nóng hành hạ và biến hầm lửa thành những ao sen.

“Bằng cách tung rải và phân bổ lính canh trong các địa ngục, Ngài làm cho Thần Chết, Dharmaraja, lễ lạy và liên tục tán thán ngài. Ngài cũng làm dịu mát kinh thành của các ngạ quỷ và làm yên dịu những đám mây mưa đá kim cương.

“Hơn nữa, những quân lính bảo vệ kho tàng, nhận thấy những thái độ thô lậu của họ được thuần hóa và bắt đầu phát khởi Bồ Đề tâm. Mười con sông lớn chảy ra từ mười ngón tay và bốn mươi con sông lớn khác chảy từ mười ngón chân Ngài. Những hạt suơng chảy ra từ những lỗ chân lông của đấng có một trái tim thương yêu, nhỏ xuống các ngạ quỷ. Chỉ nhờ nếm những giọt sương này mà cổ họng của họ được nghỉ ngơi, thân họ trở nên mạnh mẽ và toàn hảo, và họ được thỏa mãn với thực phẩm hàng trăm vị của các vị trời. Đức hạnh của những hành giả của Pháp đang cư ngụ trên trái đất khiến cho các ngạ quỷ hết sức hỉ lạc trong Giáo Pháp và Pháp âm Đại thừa xuất hiện trong cõi giới của họ. Vào lúc này, hai mươi ngọn núi sừng sững của quan điểm hư vô bị chày kim cương giác tánh nguyên sơ đập tan tành, rồi những ngạ quỷ này được tái sinh trong Cõi Cực Lạc, ở đó họ trở thành các Bồ Tát phù hợp với ước nguyện của họ và được làm cho thuần thục.

“Theo cách này, mỗi ngày Ngài đưa hàng tỉ không thể tính đếm chúng sinh tới sự viên mãn. Đó là sự xác quyết của Đức Avalokiteshvara mà ngay cả các Đức Như Lai vẫn còn thiếu.”

Vì lợi ích của những người được thuần phục, tùy theo tánh khí, năng lực, và động lực của riêng họ, trong sáu thời ngày và đêm, Đức Avalokiteshvara hóa hiện làm chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn (shravaka), Phật Độc Giác (pratyekabuddha), các vị trời, các nhạc sĩ cõi trời, các yêu tinh dạ xoa (yaksha), Ishvara (Tự tại thiên), Maheshvara (Đại Tự tại thiên), các vị đại đế, những quỷ ma khát máu, chúng sinh có thân tướng siêu phàm, những người Bà la môn, và Đức Vajrapani (Kim Cương Thủ) và giảng dạy Pháp.

Hơn nữa, thậm chí chỉ gọi tên Ngài một lần thì giống như niệm danh hiệu chư Phật nhiều lần như cát sông Hằng. Tương tự như vậy, tô tạo một pho tượng Đức Avalokiteshvara thì ngang bằng việc tô tạo những hình tượng của tất cả chư Phật và Bồ Tát đã xuất hiện, đang, và sẽ xuất hiện trong ba thời. Thiền định trong một ngày về thân tướng của Đức cao quý Avalokiteshvara có công đức to lớn hơn việc thực hành sáu toàn thiện (sáu ba la mật) trong một trăm năm. Đây là một vài trong những phẩm tính không thể nghĩ bàn của Bồ Tát.

Về những lợi ích và thuận lợi của việc trì tụng dharani của Đức Avalokiteshvara mười-một mặt (Quán Thế Âm Thập nhất diện), ta được biết là cuối cùng thì hành giả sẽ hoàn toàn làm chủ bốn phẩm tính tốt: Vào lúc chết, hành giả sẽ nhìn thấy các Đức Như Lai; hành giả sẽ không tái sinh trong các cõi thấp; sẽ không gặp giờ chết dữ; và sau khi chết ở thế giới này, hành giả sẽ được tái sinh trong Cõi Cực Lạc.

Nhờ sáu-âm của thần chú mani, tất cả các Kinh điển của Phật Pháp được đúc kết; mọi bệnh tật, thế lực xấu, và những chướng ngại đều bị xua tan; hành giả đạt được vô số phẩm tính tích cực như sự trường thọ và thoát khỏi bệnh tật; nỗi khổ của sáu loài chúng sinh được làm yên dịu; sáu toàn thiện (sáu ba la mật) được hoàn tất; và các kaya (thân) của sáu Đấng Chiến Thắng được thành tựu. Tóm lại, chỉ cần nhìn, nghe, nhớ tưởng, hay xúc chạm sáu âm này là đã gieo trồng hạt giống của sự giác ngộ. Mọi che chướng đều được nhanh chóng tịnh hóa và hành giả tránh được sự tái sinh trong các cõi thấp. Sau khi trải qua một loạt những tái sinh cao quý trong các cõi cao, hành giả nhanh chóng đạt được giác ngộ viên mãn.

Chỉ cử hành nghi thức chay của Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm một lần, hành giả giải trừ được bốn mươi ngàn kiếp lang thang trong luân hồi sinh tử và tịnh hóa tất cả các nghiệp và các che chướng do những hành động như năm hành vi đưa tới quả báo trực tiếp. Khi hoàn thiện mọi phẩm tính tích cực của sáu toàn thiện, hành giả an trú trong cấp độ của một Bồ Tát bất thối chuyển. Những người nữ cũng thế, những ai cử hành dù chỉ một lần duy nhất nghi thức chay này, khi chết sẽ được tái sinh như những Bồ Tát chứng ngộ cao cấp và quay lưng lại vòng luân hồi sinh tử. Sự thực hành của thân hành giả trong nghi thức chay sẽ tịnh hóa các che chướng thuộc thân, và hành giả không bị tái sinh làm một ngạ quỷ. Việc tự chế sự nói năng bằng lời nguyện giữ yên lặng tịnh hóa các che chướng thuộc ngữ, và hành giả sẽ không bị tái sinh làm một súc sinh. Việc trì tụng đà ra ni trong tâm tịnh hóa các che chướng thuộc về tâm và đóng lại cánh cửa dẫn tới tái sinh trong các cõi địa ngục. Như vậy, khi sử dụng ba phương pháp giữ gìn thân, ngữ và tâm trong sự tỉnh giác sống động, hành giả nhanh chóng thoát khỏi luân hồi.

Phục vụ ngũ cốc nóng cho các hành giả ăn điểm tâm sáng theo nghi lễ thì tương đương với việc phục vụ một Bồ Tát đệ bát địa; phục vụ một người chỉ thọ xuất gia tạm thời thì tương đương với việc phụng sự một vị A La Hán (arhat).

Một người bảo trợ cho một nghi thức chay như thế sẽ không bị tái sinh trong ba cõi thấp, mà sẽ được phú cho thái độ giác ngộ của Bồ đề tâm, được hưởng một sự may mắn vô tận trong mọi tái sinh, hoàn thiện phẩm tính của hạnh bố thí, và nhanh chóng đạt được giác ngộ.

Bởi những ích lợi này và những lợi lạc không thể nghĩ bàn khác, trong việc tìm kiếm đức hạnh hoàn toàn thanh tịnh, được thúc đẩy bởi lòng vị tha, niềm tin, và lòng sùng mộ mãnh liệt và quả quyết, các bạn hãy hoan hỉ và nỗ lực ngày đêm không xao lãng.

Nếu các bạn sống những ngày còn lại của đời mình thật là ý nghĩa, các bạn sẽ bảo đảm được hạnh phúc của riêng mình và của những người khác. Sự thật này đã được xác nhận bởi ngữ chân thật của các Đấng Chiến Thắng, kinh nghiệm của tất cả những bậc trưởng thượng tâm linh vĩ đại, và sự kiểm chứng trực tiếp của giác tánh nội tại của chính hành giả, và những công đức của sự theo đuổi của các bạn với ý hướng sùng mộ.

Không khởi hành sai lạc, các bạn sẽ thoát khỏi nỗi sợ chết và sợ tái sinh; nếu không được như thế thì các bạn sẽ có sự xác tín để gặp gỡ cái chết một cách hoan hỉ; ít nhất, các bạn sẽ chết mà không sợ hãi hay hối tiếc.

Tôi chắp tay và cầu nguyện tận đáy lòng rằng tất cả các bạn sẽ có thể thực hiện được điều này. Tôi luôn thúc giục các bạn hãy giải thoát tâm thức mình khỏi sự do dự và giữ vững sự trung thực trong nỗ lực đầy ý nghĩa này.

May mắn, may mắn, may mắn!

Đức Chagdud Tulku Rinpoche

Việt dịch: Liên Hoa, Bản Hiệu đính 2006
Trích: Delog – Hành Trình Tới Các Cõi Bên Kia Cái Chết